Theo giai thoại, khi chúa Nguyễn Ánh bôn tẩu đến vùng đất Trấn Giang, ông đã chèo thuyền trên sông. Ông thấy cây bần xanh tươi và có vẻ thướt tha như cây liễu, và ông đã đặt cho nó cái tên là liễu. Ngoài ra, còn có một giai thoại rằng chúa Nguyễn Ánh đã có dịp ăn món bần chua với mắm khi ông đến vùng Hàm Luông, tỉnh Bến Tre. Cũng như giai thoại đầu tiên, Nguyễn Ánh đã đặt tên cho cây bần này là "thủy liễu", có nghĩa là "cây "liễu nước".
Bần là loài cây phổ biến nhất ở vùng nước ngọt, vùng ngập mặn và Đông Nam Á. Bần thường mọc ở các bãi bồi, cửa sông, rừng ven biển và ven sông ở nước ta. Tây Nam Bộ là một trong những khu vực có nhiều loài cây này.
Cây bần không chỉ có giá trị sinh thái, ẩm thực, kinh tế mà còn có giá trị y học.
Có hai loại bần điển hình ở khu vực ĐBSCL hiện nay: bần chua và bần ổi. Cây "bần chua" (Sonneratia caseolaris) thường mọc ven sông với trái tròn dẹt (còn được gọi là bần dĩa, bần sẻ hoặc liễu).
Cây "bần ổi" (Sonneratia ovata) có trái hơi tròn gần giống như trái ổi (còn được gọi là bần hôi hoặc bần trứng).
Người ta đã biết ăn trái bần và sử dụng nó như một vị thuốc nam từ ngàn xưa.
Bần có thể ăn trái non hoặc chín, nhưng ăn bần với muối. Ngoài ra, người ta ăn bần chua với mắm sống.
Từ rất xa xưa, người dân Nam Bộ thường sử dụng bần nấu chín, loai nấu canh chua hoặc kho lạt ăn rất ngon. Để giải khát và hỗ trợ thanh nhiệt, một số người còn dùng nước cốt bần pha với một ít đường và đá lạnh.
Theo bà Lê Thị Thoa, Giám đốc Công ty Vạn Thắng, một công ty chuyên sản xuất các sản phẩm bần, "Bần được người dân ĐBSCL chế biến thành nhiều món." Trước đây, bần là món ăn phổ biến của các gia đình nghèo, nhưng ngày nay, bần đã xâm nhập vào quán ăn đặc sản và các khu du lịch.
Lẩu cá sông nấu bần là món ngon đặc sản ĐBSCL hiện đang được sử dụng trong các món ngon. Cá tra, cá ba sa, cá bông lau và cá ngát là những loại cá sông thường được sử dụng trong nấu món lẩu cá bần. Rau củ nèo, điên điển, rau nhút, bông súng và bắp chuối đều có thể được chế biến với lẩu bần. Rau nêm có lá quế, ngò om và ngò gai. Khi nồi nước nẩu nấu thành công, chẳng hạn như sau: Cho cá vào nước đang sôi và hớt bọt. Tiếp theo là cho rau vào nồi, nêm gia vị, ngò om, rau cần dày lá, một chút ớt. Vào nồi lẩu thơm nức.
Lẩu bún, nước chấm là mắm hoặc muối ớt.
Ngoài việc được sử dụng để chế biến món ăn, bần còn được sử dụng để điều trị bệnh tật.
Theo Tiến sĩ Chuyên khoa II Huỳnh Tấn Vũ, trái bần, dù sống hay chín, đều có vị chua và chát, nhưng khi chín, bần có thêm mùi thơm dễ chịu. Trái bần có tác dụng tiêu viêm, giảm đau vì trái có vị chua và tính mát. Lá có tác dụng cầm máu và chữa bí tiểu tiện.
Theo các nghiên cứu dược lý hiện đại, chiết xuất từ cây bần có tác dụng chống oxy hóa, hạ đường huyết và kháng khuẩn. Dịch chua từ trái bần bảo vệ tế bào gan, gây độc đối với ấu trùng muỗi và chống viêm. Ung thư vú, ung thư phổi và ung thư biểu mô đều bị chiết xuất từ bần ức chế.
Ngoài trái bần, hoa của loài cây này cũng có thể ăn được như một loại rau. Theo mô tả, hoa bần có vị chát, tốt cho sức tiểu đường và phòng ngừa bệnh.
Do đó, bần là một loài cây dược liệu quý phát triển mạnh ở nước ta; từ lâu đến nay, nó đã ăn sâu vào đời sống của người dân ở miền Tây Nam Bộ và một số tỉnh thành ở miền Bắc. Bần làm tốt cho môi trường và bảo vệ chúng khỏi sạt lở.
Theo bác sĩ Huỳnh Tấn Vũ, khi chiết xuất từ lá, trái, thân và rễ cây bần, người ta phát hiện ra nó chứa nhiều dược liệu quý. Tuy nhiên, các đặc tính dược học của bần chưa được khai thác đúng mức để sử dụng cho con người và y học.
Cập nhật tin tức công nghệ mới nhất tại fanpage Công nghệ & Cuộc sống