Năng lượng sạch của Việt Nam đã nhanh chóng thích nghi và đứng đầu các quốc gia ASEAN trong những năm gần đây (2016–2021) nhờ các chính sách kịp thời của Chính phủ.
27% tổng công suất lắp đặt
Nghị quyết 55-NQ/TW ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và Tuyên bố mạnh mẽ của Chính phủ Việt Nam tại Hội nghị thượng đỉnh về biển đổi khí hậu của Liên Hiệp Quốc năm 2021 thể hiện rõ quyết tâm của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong vấn đề chuyển đổi nguồn năng lượng thông thường sang nguồn năng lượng xanh, sạch.
Kết quả là, tổng công suất lắp đặt hệ thống điện đã tăng nhanh chóng, đạt gần 80.000 MW vào năm 2021, đáp ứng nhu cầu phụ tải của nền kinh tế tăng khoảng 10%/năm trong thời gian qua và thời gian tới.
Ngành năng lượng phải đối mặt với nhiều khó khăn trong giai đoạn 2021–2022 để đảm bảo cung cấp đủ nhu cầu điện, đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế–xã hội của cả nước, với mức tăng trưởng GDP bình quân khoảng 6,6%/năm từ năm 2021 đến năm 2030 và khoảng 5,7%/năm từ năm 2031 đến năm 2045. Để đảm bảo cung ứng đủ điện chất lượng, chi phí tối ưu, đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững,
Theo Phó Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo, Bộ Công Thương Phạm Nguyên Hùng, "Nhờ có các quyết sách kịp thời của Chính phủ, thị trường điện năng lượng tái tạo đã đạt được một số kết quả nhất định." Tính đến nay, tổng công suất lắp đặt nguồn điện năng lượng tái tạo (điện gió và mặt trời) đã đạt khoảng 20,7 GW, chiếm hơn 27% tổng công suất lắp đặt của hệ thống điện, đưa Việt Nam trở thành quốc gia dẫn đầu khối ASEAN về quy mô và tỷ lệ nguồn điện gió và mặt trời.
![]() |
Việt Nam trở thành quốc gia dẫn đầu khối ASEAN về quy mô cũng như tỉ lệ các nguồn điện gió và mặt trời |
Kết quả thực tế năm 2022 cho thấy sản lượng điện phát từ nguồn điện năng lượng tái tạo đạt khoảng 130 tỷ kWh, chiếm tỷ trọng gần 48% sản lượng điện phát của hệ thống điện Việt Nam, trong đó 35% là điện và 13% là của điện gió, mặt trời và sinh khối.
"Các nguồn điện năng lượng tái tạo đã hỗ trợ tích cực cung cấp nguồn điện cho miền Bắc khi miền Bắc thiếu nguồn, phụ tải tăng cao (như trong thời gian tháng 5–6 năm 2021), góp phần đảm bảo cung ứng điện cho cả giai đoạn 2021–2025. Ngoài ra, chính sách năng lượng tái tạo đã huy động hiệu quả, kịp thời nguồn tài chính trong nước, quốc tế và toàn cầu tham gia đầu tư vào các dự án năng lượng tái tạo, giảm bớt gánh nặng đầu tư nguồn điện từ ngân sách nhà nước. Theo ông Phạm Nguyên Hùng, đặc biệt, việc phát triển năng lượng tái tạo đã giúp các địa phương khai thác hiệu quả các vùng đất khô cằn, hiệu quả sản xuất nông nghiệp thấp, huy động nguồn lao động sẵn có tại địa phương và tăng đáng kể ngân sách địa phương.
Ngoài ra, việc đầu tư vào các dự án điện sử dụng nguyên liệu hóa thạch như điện than, dầu và khí... dự báo ngày càng có nhiều rủi ro về cung cấp nguyên liệu vì nguồn nguyên liệu đầu vào không chủ động được biến động bất thường của nguồn nguyên liệu quốc tế.
Trong bối cảnh đó, các nguồn điện năng lượng tái tạo được đánh giá sẽ đóng một vai trò quan trọng trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong thời gian tới, không chỉ đảm bảo nguồn điện năng sản xuất cho đất nước với chi phí hợp lý, mang lại hiệu quả cao cho ngành công nghiệp sản xuất thiết bị, dịch vụ, gia tăng việc làm, tăng cường chuỗi cung ứng trong nước và thúc đẩy tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
![]() |
Tăng cường nhập khẩu điện và liên kết lưới điện với các nước láng giềng nhằm đảm bảo an toàn vận hành hệ thống và an ninh năng lượng. |
Bộ Công Thương đã phối hợp với các Bộ, ngành nghiên cứu, xây dựng và báo cáo Thủ tướng Chính phủ về dự thảo Quy hoạch Phát triển Điện lực Quốc gia giai đoạn 2021–2022, tầm nhìn đến năm 2045, với các định hướng chủ yếu sau:
Thứ nhất, phát triển cân đối, hài công suất nguồn trên từng vùng; nâng cao là tin cậy cung cấp điện nhằm giảm thiểu tổn thất truyền tải và khai thác hiệu quả nguồn điện.
Thứ hai, đồng bộ, hợp lý và đa đạng hóa các loại nguồn điện. Để sử dụng hiệu quả nguồn năng lượng quốc gia, hãy tiếp tục phát triển các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới và điện khí trong nước. So với các mục tiêu được nêu ra trong các chính sách hiện hành, hãy xem xét tăng tỷ trọng nguồn năng lượng tái tạo.
Thứ ba, khuyến khích phát triển các trung tâm nguồn điện sử dụng LNG với quy mô đủ lớn để đảm bảo hiệu quả kinh tế của dự án, ưu tiên phát triển ở các khu vực có nhu cầu điện lớn, thuận lợi đầu tư cơ sở hạ tầng kho cảng, có khả năng mở rộng trong tương lai. Có lộ trình giảm tỷ trọng các nguồn điện than một cách hợp lý; tăng cường nhập khẩu điện và liên kết lưới điện với các nước láng giềng và các nước trong khu vực có tiềm năng; và trên nguyên tắc đảm bảo an ninh năng lượng, an toàn vận hành hệ thống điện.
Thứ tư, tạo ra các loại nguồn điện vận hành linh hoạt (thủy điện tích năng, hệ thống lưu trữ năng lượng, v.v.) phù hợp với quy mô và tỷ trọng nguồn năng lượng tái tạo trong hệ thống điện.
Góp phần thực hiện cam kết của Việt Nam tại COP 26
Ước tính ngành năng lượng có tổng mức phát thải khoảng 80% của cả nước (bao gồm năng lượng được sử dụng trong sản xuất công nghiệp, điện và vận tải, riêng sản xuất điện chiếm 30% tổng mức phát thải của cả nước). Trong đó, năng lượng mang lại cơ hội lớn cho nỗ lực đạt được phát thải ròng bằng không của Việt Nam.
Theo ông Bruce Delteil, Giám đốc Điều hành McKinsey Việt Nam, phát triển năng lượng tái tạo sẽ giúp Việt Nam đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng không vào năm 2050. Theo đó, Việt Nam phải chuyển hướng phần lớn năng lượng sang điện gió và mặt trời, đảm bảo rằng đến năm 2050, công suất lắp đặt điện gió đạt khoảng 150GW, phần lớn là ngoài khơi và công suất điện mặt trời khoảng 70GW. Phần công suất còn lại cần chuyển dịch sang điện và ngừng sử dụng than sau năm 2030.

Việt Nam có thể xuất khẩu ròng năng lượng tái tạo và trở thành trung tâm sản xuất hydro xanh |
"Lộ trình này đề xuất các mục tiêu đầy tham vọng cho năng lượng tái tạo, nhưng nó cũng chỉ giải quyết được một phần nhỏ trong tiềm năng năng lượng tái tạo của Việt Nam: 650 MW điện gió và 380 MW điện mặt trời. Theo Bruce Delteil, nếu khai thác được lợi thế tự nhiên của mình, Việt Nam có thể xuất khẩu ròng năng lượng tái tạo và trở thành trung tâm sản xuất hydro xanh.
Trong khi đó, ông Patrick Lenain, cộng sự cấp cao của Hội đồng chính sách kinh tế (CEP), cho rằng: Ở Việt Nam, các hoạt động sản xuất điện, nông nghiệp, sản xuất công nghiệp và giao thông là những nguồn chính tạo ra khí thải nhà kính. Do còn nhiều nhà máy nhiệt điện than đang hoạt động, sản xuất điện là nguồn phát thải các- bon lớn nhất của đất nước, chiếm khoảng 30% tổng lượng phát thải. Đến năm 2050, Việt Nam sẽ có thể đạt được mức trung các- bon bằng cách chuyển dịch năng lượng và phát triển năng lượng tái tạo.
Những thách thức liên quan đến chuyển dịch năng lượng
Việt Nam đã đệ trình Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) lần lượt vào năm 2015 và cập nhật vào năm 2022 theo yêu cầu của Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu, cam kết cắt giảm 8% lượng phát thải khí nhà kính quốc gia theo kịch bản phát thải thông thường vào năm 2030, tăng lên 9% trong NDC và mục tiêu tương ứng khi có sự hỗ trợ của quốc tế là 25% trong NDC và 27% trong NDC cập nhật.
Chính phủ Việt Nam đã cam kết đưa nước ta trở thành một nước trung các bon vào năm 2050, theo COP 26. Tuy nhiên, để thực hiện các cam kết trên, Việt Nam cần phải giải quyết một loạt các thách thức, khó khăn trong các vấn đề về chính sách, nguồn nhân lực và công nghệ để giảm phát thải khí nhà kính. Một trong những mục tiêu phát triển quan trọng nhất là đảm bảo an ninh năng lượng cho phát triển kinh tế - xã hội, trong đó ưu tiên hàng đầu là tăng cường an ninh năng lượng.
Các vướng mắc về chính sách và quy định pháp luật hiện hành: Thị trường năng lượng tái tạo cần có các chính sách và thủ tục pháp lý rõ ràng để thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư. Các cơ quan quản lý phải đưa ra các chính sách với các điều kiện tạo ra môi trường đầu tư ổn định và có thể dự đoán được, giúp vượt qua các rào cản và đảm bảo dự đoán được dòng doanh thu của các dự án. Tuy nhiên, các cơ chế thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo vẫn chưa đưa ra được định hướng lâu dài và nhiều chính sách còn bất cập.
Các quy định và tiêu chuẩn áp dụng cho công nghệ không còn được thiết lập ở Việt Nam, điều này gây khó khăn cho cả chủ đầu tư dự án và các tổ chức quản lý nhà nước.
Về sử dụng đất, các dự án năng lượng tái tạo có các đặc điểm sau: Diện tích đất vẫn có thể canh tác các cây trồng phù hợp (đối với các dự án trên mặt đất), hoặc nuôi trồng sản (đối với các Dự án trên mặt nước). Do đó, các dự án sử dụng năng lượng tái tạo có thể kết hợp với sản xuất nông nghiệp. Hiện nay, thu hồi đất vẫn cần thủ tục như các dự án đầu tư khác, điều này kéo dài thời gian thực hiện dự án và tạo ra nhiều vướng mắc giữa chủ dự án và người nông dân có đất.
![]() |
Các dự án điện gió, điện mặt trời phụ thuộc vào thời tiết nên hệ thống lưới điện sẽ gặp nhiều thách thức |
Các khó khăn, vướng mắc về kỹ thuật: Việc phát triển không đồng bộ các dự án năng lượng tái tạo với lưới điện truyền tải dẫn đến quá tải lưới điện và không huy động hết năng lực của các nhà máy. Các dự án điện gió, điện mặt trời phụ thuộc vào thời tiết, vì vậy khi được tích hợp vào hệ thống điện quy mô lớn sẽ gặp nhiều khó khăn về kỹ thuật phải được giải quyết. Các số liệu về nguồn năng lượng tái tạo của Việt Nam chưa được xây dựng hoàn thiện, đáng tin cậy làm cơ sở cho việc phát triển dự án.
Khó khăn trong thu xếp tài chính: Đầu tư vào các dự án năng lượng tái tạo có nhu cầu về vốn lớn, rủi ro cao do công suất, sản lượng phụ thuộc thời tiết, khí hậu, khả năng thu hồi vốn kéo dài do suất đầu tư và giá điện cao hơn nguồn năng lượng truyền thống. Do đó, các tổ chức tài chính và ngân hàng thương mại thường không sẵn sàng cho vay các dự án đầu tư vào lĩnh vực này.
Bài cuối: Kinh nghiệm thế giới và giải pháp cho phát triển năng lượng sạch ở Việt Nam
Theo Báo Công Thương
Năng lượng sạch của Việt Nam đã nhanh chóng thích nghi và đứng đầu các quốc gia ASEAN trong những năm gần đây (2016–2021) nhờ các chính sách kịp thời của Chính phủ.
27% tổng công suất lắp đặt
Nghị quyết 55-NQ/TW ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và Tuyên bố mạnh mẽ của Chính phủ Việt Nam tại Hội nghị thượng đỉnh về biển đổi khí hậu của Liên Hiệp Quốc năm 2021 thể hiện rõ quyết tâm của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong vấn đề chuyển đổi nguồn năng lượng thông thường sang nguồn năng lượng xanh, sạch.
Kết quả là, tổng công suất lắp đặt hệ thống điện đã tăng nhanh chóng, đạt gần 80.000 MW vào năm 2021, đáp ứng nhu cầu phụ tải của nền kinh tế tăng khoảng 10%/năm trong thời gian qua và thời gian tới.
Ngành năng lượng phải đối mặt với nhiều khó khăn trong giai đoạn 2021–2022 để đảm bảo cung cấp đủ nhu cầu điện, đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế–xã hội của cả nước, với mức tăng trưởng GDP bình quân khoảng 6,6%/năm từ năm 2021 đến năm 2030 và khoảng 5,7%/năm từ năm 2031 đến năm 2045. Để đảm bảo cung ứng đủ điện chất lượng, chi phí tối ưu, đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững,
Theo Phó Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo, Bộ Công Thương Phạm Nguyên Hùng, "Nhờ có các quyết sách kịp thời của Chính phủ, thị trường điện năng lượng tái tạo đã đạt được một số kết quả nhất định." Tính đến nay, tổng công suất lắp đặt nguồn điện năng lượng tái tạo (điện gió và mặt trời) đã đạt khoảng 20,7 GW, chiếm hơn 27% tổng công suất lắp đặt của hệ thống điện, đưa Việt Nam trở thành quốc gia dẫn đầu khối ASEAN về quy mô và tỷ lệ nguồn điện gió và mặt trời.
![]() |
Việt Nam trở thành quốc gia dẫn đầu khối ASEAN về quy mô cũng như tỉ lệ các nguồn điện gió và mặt trời |
Kết quả thực tế năm 2022 cho thấy sản lượng điện phát từ nguồn điện năng lượng tái tạo đạt khoảng 130 tỷ kWh, chiếm tỷ trọng gần 48% sản lượng điện phát của hệ thống điện Việt Nam, trong đó 35% là điện và 13% là của điện gió, mặt trời và sinh khối.
"Các nguồn điện năng lượng tái tạo đã hỗ trợ tích cực cung cấp nguồn điện cho miền Bắc khi miền Bắc thiếu nguồn, phụ tải tăng cao (như trong thời gian tháng 5–6 năm 2021), góp phần đảm bảo cung ứng điện cho cả giai đoạn 2021–2025. Ngoài ra, chính sách năng lượng tái tạo đã huy động hiệu quả, kịp thời nguồn tài chính trong nước, quốc tế và toàn cầu tham gia đầu tư vào các dự án năng lượng tái tạo, giảm bớt gánh nặng đầu tư nguồn điện từ ngân sách nhà nước. Theo ông Phạm Nguyên Hùng, đặc biệt, việc phát triển năng lượng tái tạo đã giúp các địa phương khai thác hiệu quả các vùng đất khô cằn, hiệu quả sản xuất nông nghiệp thấp, huy động nguồn lao động sẵn có tại địa phương và tăng đáng kể ngân sách địa phương.
Ngoài ra, việc đầu tư vào các dự án điện sử dụng nguyên liệu hóa thạch như điện than, dầu và khí... dự báo ngày càng có nhiều rủi ro về cung cấp nguyên liệu vì nguồn nguyên liệu đầu vào không chủ động được biến động bất thường của nguồn nguyên liệu quốc tế.
Trong bối cảnh đó, các nguồn điện năng lượng tái tạo được đánh giá sẽ đóng một vai trò quan trọng trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong thời gian tới, không chỉ đảm bảo nguồn điện năng sản xuất cho đất nước với chi phí hợp lý, mang lại hiệu quả cao cho ngành công nghiệp sản xuất thiết bị, dịch vụ, gia tăng việc làm, tăng cường chuỗi cung ứng trong nước và thúc đẩy tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
![]() |
Tăng cường nhập khẩu điện và liên kết lưới điện với các nước láng giềng nhằm đảm bảo an toàn vận hành hệ thống và an ninh năng lượng. |
Bộ Công Thương đã phối hợp với các Bộ, ngành nghiên cứu, xây dựng và báo cáo Thủ tướng Chính phủ về dự thảo Quy hoạch Phát triển Điện lực Quốc gia giai đoạn 2021–2022, tầm nhìn đến năm 2045, với các định hướng chủ yếu sau:
Thứ nhất, phát triển cân đối, hài công suất nguồn trên từng vùng; nâng cao là tin cậy cung cấp điện nhằm giảm thiểu tổn thất truyền tải và khai thác hiệu quả nguồn điện.
Thứ hai, đồng bộ, hợp lý và đa đạng hóa các loại nguồn điện. Để sử dụng hiệu quả nguồn năng lượng quốc gia, hãy tiếp tục phát triển các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới và điện khí trong nước. So với các mục tiêu được nêu ra trong các chính sách hiện hành, hãy xem xét tăng tỷ trọng nguồn năng lượng tái tạo.
Thứ ba, khuyến khích phát triển các trung tâm nguồn điện sử dụng LNG với quy mô đủ lớn để đảm bảo hiệu quả kinh tế của dự án, ưu tiên phát triển ở các khu vực có nhu cầu điện lớn, thuận lợi đầu tư cơ sở hạ tầng kho cảng, có khả năng mở rộng trong tương lai. Có lộ trình giảm tỷ trọng các nguồn điện than một cách hợp lý; tăng cường nhập khẩu điện và liên kết lưới điện với các nước láng giềng và các nước trong khu vực có tiềm năng; và trên nguyên tắc đảm bảo an ninh năng lượng, an toàn vận hành hệ thống điện.
Thứ tư, tạo ra các loại nguồn điện vận hành linh hoạt (thủy điện tích năng, hệ thống lưu trữ năng lượng, v.v.) phù hợp với quy mô và tỷ trọng nguồn năng lượng tái tạo trong hệ thống điện.
Góp phần thực hiện cam kết của Việt Nam tại COP 26
Ước tính ngành năng lượng có tổng mức phát thải khoảng 80% của cả nước (bao gồm năng lượng được sử dụng trong sản xuất công nghiệp, điện và vận tải, riêng sản xuất điện chiếm 30% tổng mức phát thải của cả nước). Trong đó, năng lượng mang lại cơ hội lớn cho nỗ lực đạt được phát thải ròng bằng không của Việt Nam.
Theo ông Bruce Delteil, Giám đốc Điều hành McKinsey Việt Nam, phát triển năng lượng tái tạo sẽ giúp Việt Nam đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng không vào năm 2050. Theo đó, Việt Nam phải chuyển hướng phần lớn năng lượng sang điện gió và mặt trời, đảm bảo rằng đến năm 2050, công suất lắp đặt điện gió đạt khoảng 150GW, phần lớn là ngoài khơi và công suất điện mặt trời khoảng 70GW. Phần công suất còn lại cần chuyển dịch sang điện và ngừng sử dụng than sau năm 2030.

Việt Nam có thể xuất khẩu ròng năng lượng tái tạo và trở thành trung tâm sản xuất hydro xanh |
"Lộ trình này đề xuất các mục tiêu đầy tham vọng cho năng lượng tái tạo, nhưng nó cũng chỉ giải quyết được một phần nhỏ trong tiềm năng năng lượng tái tạo của Việt Nam: 650 MW điện gió và 380 MW điện mặt trời. Theo Bruce Delteil, nếu khai thác được lợi thế tự nhiên của mình, Việt Nam có thể xuất khẩu ròng năng lượng tái tạo và trở thành trung tâm sản xuất hydro xanh.
Trong khi đó, ông Patrick Lenain, cộng sự cấp cao của Hội đồng chính sách kinh tế (CEP), cho rằng: Ở Việt Nam, các hoạt động sản xuất điện, nông nghiệp, sản xuất công nghiệp và giao thông là những nguồn chính tạo ra khí thải nhà kính. Do còn nhiều nhà máy nhiệt điện than đang hoạt động, sản xuất điện là nguồn phát thải các- bon lớn nhất của đất nước, chiếm khoảng 30% tổng lượng phát thải. Đến năm 2050, Việt Nam sẽ có thể đạt được mức trung các- bon bằng cách chuyển dịch năng lượng và phát triển năng lượng tái tạo.
Những thách thức liên quan đến chuyển dịch năng lượng
Việt Nam đã đệ trình Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) lần lượt vào năm 2015 và cập nhật vào năm 2022 theo yêu cầu của Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu, cam kết cắt giảm 8% lượng phát thải khí nhà kính quốc gia theo kịch bản phát thải thông thường vào năm 2030, tăng lên 9% trong NDC và mục tiêu tương ứng khi có sự hỗ trợ của quốc tế là 25% trong NDC và 27% trong NDC cập nhật.
Chính phủ Việt Nam đã cam kết đưa nước ta trở thành một nước trung các bon vào năm 2050, theo COP 26. Tuy nhiên, để thực hiện các cam kết trên, Việt Nam cần phải giải quyết một loạt các thách thức, khó khăn trong các vấn đề về chính sách, nguồn nhân lực và công nghệ để giảm phát thải khí nhà kính. Một trong những mục tiêu phát triển quan trọng nhất là đảm bảo an ninh năng lượng cho phát triển kinh tế - xã hội, trong đó ưu tiên hàng đầu là tăng cường an ninh năng lượng.
Các vướng mắc về chính sách và quy định pháp luật hiện hành: Thị trường năng lượng tái tạo cần có các chính sách và thủ tục pháp lý rõ ràng để thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư. Các cơ quan quản lý phải đưa ra các chính sách với các điều kiện tạo ra môi trường đầu tư ổn định và có thể dự đoán được, giúp vượt qua các rào cản và đảm bảo dự đoán được dòng doanh thu của các dự án. Tuy nhiên, các cơ chế thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo vẫn chưa đưa ra được định hướng lâu dài và nhiều chính sách còn bất cập.
Các quy định và tiêu chuẩn áp dụng cho công nghệ không còn được thiết lập ở Việt Nam, điều này gây khó khăn cho cả chủ đầu tư dự án và các tổ chức quản lý nhà nước.
Về sử dụng đất, các dự án năng lượng tái tạo có các đặc điểm sau: Diện tích đất vẫn có thể canh tác các cây trồng phù hợp (đối với các dự án trên mặt đất), hoặc nuôi trồng sản (đối với các Dự án trên mặt nước). Do đó, các dự án sử dụng năng lượng tái tạo có thể kết hợp với sản xuất nông nghiệp. Hiện nay, thu hồi đất vẫn cần thủ tục như các dự án đầu tư khác, điều này kéo dài thời gian thực hiện dự án và tạo ra nhiều vướng mắc giữa chủ dự án và người nông dân có đất.
![]() |
Các dự án điện gió, điện mặt trời phụ thuộc vào thời tiết nên hệ thống lưới điện sẽ gặp nhiều thách thức |
Các khó khăn, vướng mắc về kỹ thuật: Việc phát triển không đồng bộ các dự án năng lượng tái tạo với lưới điện truyền tải dẫn đến quá tải lưới điện và không huy động hết năng lực của các nhà máy. Các dự án điện gió, điện mặt trời phụ thuộc vào thời tiết, vì vậy khi được tích hợp vào hệ thống điện quy mô lớn sẽ gặp nhiều khó khăn về kỹ thuật phải được giải quyết. Các số liệu về nguồn năng lượng tái tạo của Việt Nam chưa được xây dựng hoàn thiện, đáng tin cậy làm cơ sở cho việc phát triển dự án.
Khó khăn trong thu xếp tài chính: Đầu tư vào các dự án năng lượng tái tạo có nhu cầu về vốn lớn, rủi ro cao do công suất, sản lượng phụ thuộc thời tiết, khí hậu, khả năng thu hồi vốn kéo dài do suất đầu tư và giá điện cao hơn nguồn năng lượng truyền thống. Do đó, các tổ chức tài chính và ngân hàng thương mại thường không sẵn sàng cho vay các dự án đầu tư vào lĩnh vực này.
Bài cuối: Kinh nghiệm thế giới và giải pháp cho phát triển năng lượng sạch ở Việt Nam
Theo Báo Công Thương
Cập nhật tin tức công nghệ mới nhất tại fanpage Công nghệ & Cuộc sống