Theo Nghị quyết số 582/NQ-UBTVQH15, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải làm Trưởng đoàn; Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy làm Phó Trưởng đoàn Thường trực; Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Bùi Văn Cường làm Phó Trưởng đoàn Giám sát.
Phạm vi giám sát là việc thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng theo quy định của pháp luật liên quan trên phạm vi cả nước (trọng tâm là các Luật Điện lực, Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, Luật Dầu khí, Luật Năng lượng nguyên tử, Luật Khoáng sản, Luật Bảo vệ Môi trường, Luật Quy hoạch) từ ngày 01/01/2016 đến hết ngày 31/12/2021. Chính phủ, các Bộ, ngành, tổ chức, doanh nghiệp có liên quan và UBND cấp tỉnh của 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là những đối tượng giám sát.
![]() |
Nhiệm vụ quan trọng là phát triển năng lượng một cách bền vững (ảnh minh: Internet). |
Quốc hội đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật như: Luật Điện lực năm 2004, Luật Năng lượng Nguyên tử năm 2008, Luật Sử dụng Năng lượng Tiết kiệm và Hiệu quả năm 2010, Luật Khoáng sản năm 2008, Luật Dầu khí số năm 2022... để đánh giá năng lượng vừa là ngành sản xuất vừa là ngành kết cấu hạ tầng cho toàn bộ nền kinh tế-xã hội và vừa là động lực cho quá trình phát triển của đất nước.
Tuy nhiên, những thành tựu và tiến bộ đạt được chưa đủ để ngành Năng lượng vượt qua tình trạng phát triển thấp và Việt Nam cần tiếp tục đưa ra các chính sách và sửa đổi một số luật sao cho phù hợp với thực tế nhằm thu hút các nguồn lực để phát triển năng lượng theo hướng đảm bảo an ninh năng lượng, phát triển năng lượng tái tạo.
PGS.TS Bùi Xuân Thông-Viện Hải văn và Môi trường, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam nhận định: Trong giai đoạn 2016–2020, Việt Nam đã đạt được bước phát triển đột phá về năng lượng tái tạo. Cơ chế khuyến khích phát triển điện mặt trời của Chính phủ đã tạo động lực mạnh mẽ thu hút các nhà đầu tư tham gia sản xuất điện mặt trời. Đến cuối năm 2020, tổng công suất các nguồn điện từ năng lượng tái tạo của Việt Nam đạt khoảng 6.000 MW, trong đó có khoảng 6.364 MWp điện mặt trời (tương ứng khoảng 5.290 MW), 500 MW gió và 325 MW công suất điện sinh khối. Điện gió, điện mặt trời và điện sinh khối đã chiếm xấp xỉ 10% tổng công suất đạt của hệ thống điện.
Theo PGS.TS Bùi Xuân Thông, những kết quả tích cực đạt được của ngành năng lượng trong những năm từ 2016 đến 2020 là tiền đề, động lực quan trọng để triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết 55-NQ/TW của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và Nghị quyết 140/NQ-CP của Chính phủ về việc ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 55- NQ/TW ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị về lập kế hoạch chiến lược phát triển nguồn năng lượng quốc gia cho Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn tới năm 2045. Đặc biệt, các nghị quyết của Đảng và Nhà nước về phát triển năng lượng tái tạo trong thời gian này được coi là các bước đột phá.
![]() |
Hội thảo về việc thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng Việt Nam giai đoạn 2016-2021 được tổ chức bởi Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. |
Tuy nhiên, ngành năng lượng của chúng ta vẫn còn một số hạn chế, bao gồm nhận thức vai trò, vị trí, tầm quan trọng của ngành năng lượng và mục tiêu an ninh năng lượng quốc gia chưa được quan tâm đầy đủ. Cả chính sách, lý luận và thực tiễn đều được sử dụng để tổng kết một số vấn đề phát triển năng lượng chậm. Chậm giải quyết các vướng mắc về phương hướng phát triển của ngành năng lượng và thiếu cụ thể hóa cơ chế thị trường trong ngành năng lượng. Tính pháp lý của ngành năng lượng nói chung và của từng bộ phận năng lượng còn nhiều hạn chế, thiếu thống nhất và thiếu tính hợp tác quốc tế.
Các chính sách đầu tư quản lý Nhà nước về tài nguyên năng lượng còn thiếu và chưa đồng bộ, các đầu tư khoa học công nghệ cho lĩnh vực năng lượng chậm đổi mới và các chiến lược quy hoạch năng lượng chưa được ban hành. Bộ máy quản lý Nhà nước về năng lượng thiếu ổn định và công tác dự báo phát triển ngành năng lượng còn yếu. Hiện tại, còn rất nhiều các dự án nhà máy năng lượng tái tạo vẫn chưa được hoàn thiện.
PGS.TS Bùi Xuân Thông kiến nghị một bộ luật riêng cho các ngành năng lượng tái tạo, với những bất cập đã nói ở trên. Ngoài ra, cần phải có một bộ quy định chung cho các loại năng lượng tái tạo, chẳng hạn như điện sinh khối, điện mặt trời, điện gió và điện rác. Ngoài ra, cần tạo điều kiện cho các tư nhân tham gia vào phát triển năng lượng tái tạo.
![]() |
Công ty cổ phần Tư vấn Xây dựng Điện 1, bà Cao Thị Thu Yến, là một chuyên gia năng lượng và môi trường. |
Bà Cao Thị Thu Yến, chuyên gia năng lượng và môi trường, Công ty cổ phần Tư vấn Xây dựng Điện 1, đồng thuận với việc cần có một bộ luật riêng về năng lượng tái tạo và đưa ra đề xuất cho các quy hoạch năng lượng/điện và chuyển dịch năng lượng một cách công bằng và bền vững. Trên thực tế, một quá trình chuyển dịch năng lượng mạnh mẽ với kết quả đáng kể đã diễn ra ở Việt Nam trong 5 năm qua.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, sự bùng nổ về nguồn năng lượng tái tạo vẫn chưa có đủ cơ sở pháp lý, thiếu nghiên cứu tổng hợp, đầy đủ về chuyển dịch năng lượng và các nghiên cứu thành phần chuyên sâu cho từng loại hình năng lượng đã tạo ra nhiều vấn đề bất cập trước mắt và lâu dài đối với hệ thống cung ứng năng lượng và toàn xã hội. Việc này cần sớm có một giải pháp xử lý có phương pháp và đồng bộ.
Mặt khác, vì hiện nay không có luật riêng về năng lượng tái tạo nên không có định nghĩa rõ ràng cho các loại năng lượng tái tạo như hydrogen và dẫn xuất. Do đó, năng lượng tái tạo phải được luật pháp riêng chi trả.
Ngoài ra, phương pháp thực hiện đấu thầu năng lượng tái tạo chưa được hoàn thiện. Điện gió ngoài khơi hiện đang gặp khó khăn từ khâu khảo sát đến thực hiện đầu tư dự án; chưa có cơ chế tài chính cho hệ thống tích trữ năng lượng như pin, điện tích năng... Việc chậm phát triển hệ thống lưu trữ sẽ hạn chế khả năng huy động nguồn năng lượng tái tạo.
Bà Cao Thị Thu Yến đề nghị rằng các Bộ ngành chủ quản phải triển khai các nhiệm vụ cụ thể liên quan đến nghiên cứu Kế hoạch chuyển dịch năng lượng cấp quốc gia một cách đồng bộ và đủ sớm tại Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) và các đơn vị liên quan để có thể thực hiện hiệu quả các quy hoạch năng lượng, điện và chuyển dịch năng lượng một cách công bằng và bền vững. đề xuất cách tiếp cận/phối hợp khi nghiên cứu Kế hoạch chuyển đổi năng lượng ngành điện quốc gia do EVN chủ trì như sau:
Trên cơ sở các định hướng đã được phê duyệt về cung cấp năng lượng, tham chiếu kết quả nghiên cứu các quy hoạch dự thảo liên quan như Quy hoạch điện 8, Quy hoạch không gian biển... và dự báo chuyển dịch quan trọng về nhu cầu năng lượng cho các ngành như giao thông, phát triển đô thị, công nghiệp... Ngoài ra, EVN phải chủ trì càng sớm càng tốt để triển khai lập Dự thảo Kế hoạch chuyển dịch năng lượng ngành điện (mốc giả thiết là tháng 9/2023) và chỉnh sửa, hoàn thiện sau khi tham vấn, thống nhất với các bên liên quan ngoài EVN và trong EVN (mốc giả định là tháng 12/2023)./.
Theo Cổng thông tin điện tử Quốc Hội
Theo Nghị quyết số 582/NQ-UBTVQH15, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải làm Trưởng đoàn; Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy làm Phó Trưởng đoàn Thường trực; Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Bùi Văn Cường làm Phó Trưởng đoàn Giám sát.
Phạm vi giám sát là việc thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng theo quy định của pháp luật liên quan trên phạm vi cả nước (trọng tâm là các Luật Điện lực, Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, Luật Dầu khí, Luật Năng lượng nguyên tử, Luật Khoáng sản, Luật Bảo vệ Môi trường, Luật Quy hoạch) từ ngày 01/01/2016 đến hết ngày 31/12/2021. Chính phủ, các Bộ, ngành, tổ chức, doanh nghiệp có liên quan và UBND cấp tỉnh của 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là những đối tượng giám sát.
![]() |
Nhiệm vụ quan trọng là phát triển năng lượng một cách bền vững (ảnh minh: Internet). |
Quốc hội đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật như: Luật Điện lực năm 2004, Luật Năng lượng Nguyên tử năm 2008, Luật Sử dụng Năng lượng Tiết kiệm và Hiệu quả năm 2010, Luật Khoáng sản năm 2008, Luật Dầu khí số năm 2022... để đánh giá năng lượng vừa là ngành sản xuất vừa là ngành kết cấu hạ tầng cho toàn bộ nền kinh tế-xã hội và vừa là động lực cho quá trình phát triển của đất nước.
Tuy nhiên, những thành tựu và tiến bộ đạt được chưa đủ để ngành Năng lượng vượt qua tình trạng phát triển thấp và Việt Nam cần tiếp tục đưa ra các chính sách và sửa đổi một số luật sao cho phù hợp với thực tế nhằm thu hút các nguồn lực để phát triển năng lượng theo hướng đảm bảo an ninh năng lượng, phát triển năng lượng tái tạo.
PGS.TS Bùi Xuân Thông-Viện Hải văn và Môi trường, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam nhận định: Trong giai đoạn 2016–2020, Việt Nam đã đạt được bước phát triển đột phá về năng lượng tái tạo. Cơ chế khuyến khích phát triển điện mặt trời của Chính phủ đã tạo động lực mạnh mẽ thu hút các nhà đầu tư tham gia sản xuất điện mặt trời. Đến cuối năm 2020, tổng công suất các nguồn điện từ năng lượng tái tạo của Việt Nam đạt khoảng 6.000 MW, trong đó có khoảng 6.364 MWp điện mặt trời (tương ứng khoảng 5.290 MW), 500 MW gió và 325 MW công suất điện sinh khối. Điện gió, điện mặt trời và điện sinh khối đã chiếm xấp xỉ 10% tổng công suất đạt của hệ thống điện.
Theo PGS.TS Bùi Xuân Thông, những kết quả tích cực đạt được của ngành năng lượng trong những năm từ 2016 đến 2020 là tiền đề, động lực quan trọng để triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết 55-NQ/TW của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và Nghị quyết 140/NQ-CP của Chính phủ về việc ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 55- NQ/TW ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị về lập kế hoạch chiến lược phát triển nguồn năng lượng quốc gia cho Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn tới năm 2045. Đặc biệt, các nghị quyết của Đảng và Nhà nước về phát triển năng lượng tái tạo trong thời gian này được coi là các bước đột phá.
![]() |
Hội thảo về việc thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng Việt Nam giai đoạn 2016-2021 được tổ chức bởi Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. |
Tuy nhiên, ngành năng lượng của chúng ta vẫn còn một số hạn chế, bao gồm nhận thức vai trò, vị trí, tầm quan trọng của ngành năng lượng và mục tiêu an ninh năng lượng quốc gia chưa được quan tâm đầy đủ. Cả chính sách, lý luận và thực tiễn đều được sử dụng để tổng kết một số vấn đề phát triển năng lượng chậm. Chậm giải quyết các vướng mắc về phương hướng phát triển của ngành năng lượng và thiếu cụ thể hóa cơ chế thị trường trong ngành năng lượng. Tính pháp lý của ngành năng lượng nói chung và của từng bộ phận năng lượng còn nhiều hạn chế, thiếu thống nhất và thiếu tính hợp tác quốc tế.
Các chính sách đầu tư quản lý Nhà nước về tài nguyên năng lượng còn thiếu và chưa đồng bộ, các đầu tư khoa học công nghệ cho lĩnh vực năng lượng chậm đổi mới và các chiến lược quy hoạch năng lượng chưa được ban hành. Bộ máy quản lý Nhà nước về năng lượng thiếu ổn định và công tác dự báo phát triển ngành năng lượng còn yếu. Hiện tại, còn rất nhiều các dự án nhà máy năng lượng tái tạo vẫn chưa được hoàn thiện.
PGS.TS Bùi Xuân Thông kiến nghị một bộ luật riêng cho các ngành năng lượng tái tạo, với những bất cập đã nói ở trên. Ngoài ra, cần phải có một bộ quy định chung cho các loại năng lượng tái tạo, chẳng hạn như điện sinh khối, điện mặt trời, điện gió và điện rác. Ngoài ra, cần tạo điều kiện cho các tư nhân tham gia vào phát triển năng lượng tái tạo.
![]() |
Công ty cổ phần Tư vấn Xây dựng Điện 1, bà Cao Thị Thu Yến, là một chuyên gia năng lượng và môi trường. |
Bà Cao Thị Thu Yến, chuyên gia năng lượng và môi trường, Công ty cổ phần Tư vấn Xây dựng Điện 1, đồng thuận với việc cần có một bộ luật riêng về năng lượng tái tạo và đưa ra đề xuất cho các quy hoạch năng lượng/điện và chuyển dịch năng lượng một cách công bằng và bền vững. Trên thực tế, một quá trình chuyển dịch năng lượng mạnh mẽ với kết quả đáng kể đã diễn ra ở Việt Nam trong 5 năm qua.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, sự bùng nổ về nguồn năng lượng tái tạo vẫn chưa có đủ cơ sở pháp lý, thiếu nghiên cứu tổng hợp, đầy đủ về chuyển dịch năng lượng và các nghiên cứu thành phần chuyên sâu cho từng loại hình năng lượng đã tạo ra nhiều vấn đề bất cập trước mắt và lâu dài đối với hệ thống cung ứng năng lượng và toàn xã hội. Việc này cần sớm có một giải pháp xử lý có phương pháp và đồng bộ.
Mặt khác, vì hiện nay không có luật riêng về năng lượng tái tạo nên không có định nghĩa rõ ràng cho các loại năng lượng tái tạo như hydrogen và dẫn xuất. Do đó, năng lượng tái tạo phải được luật pháp riêng chi trả.
Ngoài ra, phương pháp thực hiện đấu thầu năng lượng tái tạo chưa được hoàn thiện. Điện gió ngoài khơi hiện đang gặp khó khăn từ khâu khảo sát đến thực hiện đầu tư dự án; chưa có cơ chế tài chính cho hệ thống tích trữ năng lượng như pin, điện tích năng... Việc chậm phát triển hệ thống lưu trữ sẽ hạn chế khả năng huy động nguồn năng lượng tái tạo.
Bà Cao Thị Thu Yến đề nghị rằng các Bộ ngành chủ quản phải triển khai các nhiệm vụ cụ thể liên quan đến nghiên cứu Kế hoạch chuyển dịch năng lượng cấp quốc gia một cách đồng bộ và đủ sớm tại Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) và các đơn vị liên quan để có thể thực hiện hiệu quả các quy hoạch năng lượng, điện và chuyển dịch năng lượng một cách công bằng và bền vững. đề xuất cách tiếp cận/phối hợp khi nghiên cứu Kế hoạch chuyển đổi năng lượng ngành điện quốc gia do EVN chủ trì như sau:
Trên cơ sở các định hướng đã được phê duyệt về cung cấp năng lượng, tham chiếu kết quả nghiên cứu các quy hoạch dự thảo liên quan như Quy hoạch điện 8, Quy hoạch không gian biển... và dự báo chuyển dịch quan trọng về nhu cầu năng lượng cho các ngành như giao thông, phát triển đô thị, công nghiệp... Ngoài ra, EVN phải chủ trì càng sớm càng tốt để triển khai lập Dự thảo Kế hoạch chuyển dịch năng lượng ngành điện (mốc giả thiết là tháng 9/2023) và chỉnh sửa, hoàn thiện sau khi tham vấn, thống nhất với các bên liên quan ngoài EVN và trong EVN (mốc giả định là tháng 12/2023)./.
Theo Cổng thông tin điện tử Quốc Hội
Cập nhật tin tức công nghệ mới nhất tại fanpage Công nghệ & Cuộc sống