Tác động biến đối khí hậu đối với lĩnh vực năng lượng
Cả về phía cung và cầu điện, biến đổi khí hậu được cho là có tác động đáng kể đến hệ thống năng lượng của Việt Nam. Biến đổi khí hậu ảnh hưởng tiêu cực đáng kể đến nhu cầu điện trên toàn bộ hệ thống năng lượng, nhưng nó lại mang lại hiệu quả tích cực cho điện về mặt sản xuất điện ở Việt Nam do lượng mưa tăng lên. Tuy nhiên, mức giảm chi phí xã hội và phát thải của điện thấp hơn mức tăng thêm phát thải do tác động của biến đổi khí hậu đối với nhu cầu điện và ngược lại đối với hệ thống năng lượng, biến đổi khí hậu gây ra tác động đáng kể đến chi phí xã hội. Theo các kịch bản RCP4,5 và RCP8,5, mức tăng thêm tích lũy là 3.105,3 triệu USD và 6.726,5 triệu USD, và lượng phát thải bổ sung là 118,9 MtCO2e và 249,7 MtCO2e lần lượt vào năm 2050.
Biến đổi khí hậu tác động đến cung, cầu nguồn điện. Ảnh minh họa: Công nhân vận hành tại nhà máy nhiệt điện Nghi Sơn |
Nghiên cứu của các chuyên gia nói trên về nguồn cung cho thấy sản lượng điện ở Việt Nam nói chung có mối quan hệ đồng biến với lượng mưa. Tuy nhiên, phạm vi dự báo rộng và không chắc chắn về tác động của việc phát điện hàng năm và hàng tháng. Khả năng sản xuất năng lượng, hệ thống truyền tải hoặc chính cơ sở hạ tầng có thể bị ảnh hưởng bởi những thay đổi về lượng mưa và nhiệt độ.
Các nhà máy nhiệt điện cũng bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu. Hiệu suất phát điện của nhà máy nhiệt điện sẽ bị ảnh hưởng bởi các thay đổi về nhiệt độ không khí và nước: nhiệt độ không khí cao hơn sẽ làm giảm hiệu suất phát điện của các nhà máy nhiệt điện; nhiệt độ nước tăng có thể ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của các hệ thống làm mát. Các TSMK với nhiệt điện than được sản xuất khi nhu cầu phát thải khí nhà kính tăng lên.
Hạ tầng ngành năng lượng sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi lượng mưa và dòng chảy bất thường, ảnh hưởng đến khả năng cung ứng và điều tiết kế hoạch sản xuất điện của các nhà máy điện, gây thiệt hại, hư hỏng đến cơ sở hạ tầng cung điện, gia tăng chi phí đầu tư mới, cải tạo, sửa chữa và nâng cấp thiết bị, mạng lưới phân phối điện, giàn khoan dầu được xây dựng trên biển, hệ thống vận chuyển dầu và khí, cũng như các nhà máy điện chạy khí được xây dựng ven biển. Tình trạng khí hậu thay đổi và thời tiết cực đoan sẽ có tác động đến lĩnh vực khai thác nhiên liệu hóa thạch.
Khai thác than ở Quảng Ninh và triển vọng khai thác than nâu ở đồng bằng sông Hồng sẽ khó khăn hơn do làm tăng khả năng hao hụt, tổn thất sản lượng than do tần suất, cường độ mưa bão và lũ lụt gia tăng, tăng chi phí sản xuất, chi phí xây dựng vận hành, duy trì các hệ thống khoan và phương tiện vận chuyển.
Khai thác dầu khí ở ngoài thềm lục địa đòi hỏi công nghiệp lọc-hóa dầu phải tăng chi phí vận hành, bảo dưỡng, duy trì máy móc, phương tiện; khó khăn hơn cho hệ thống vận chuyển dầu và khí từ dàn khoan trên biển đến các nhà máy hóa-lọc dầu.
Các tiêu chuẩn về chất lượng nhiên liệu, các tiêu chuẩn hiệu suất, các tiêu chuẩn về hiệu suất năng lượng, các tiêu chuẩn về chất lượng không khí, các tiêu chuẩn về năng lượng tái tạo, các tiêu chuẩn và quy định liên quan đến phát thải và công nghệ áp dụng là một số quy định quan trọng về ứng phó với biến đổi khí hậu sẽ có tác động đến nhu cầu và chi phí sản xuất nhiên liệu và năng lượng.
Tài sản mắc kẹt với thị trường năng lượng
Những cam kết của Chính phủ Việt Nam tại COP 26 sẽ có tác động đáng kể đến tài sản của nền kinh tế nói chung và ngành điện nói riêng. Thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng xanh hơn. Các nhà máy nhiệt điện than có nguy cơ lớn nhất rơi vào tình trạng tài sản mắc kẹt.
Theo định nghĩa này, nhà máy có nguy cơ thua lỗ hoặc mất giá, rơi vào tình trạng phá sản do phải đóng cửa tổ máy sớm cho phù hợp với năm ngừng hoạt động nhằm đáp ứng các điều kiện về phát thải khí nhà kính (KNK). Nói một cách đơn giản, một nhà máy nhiệt điện rơi vào tình trạng mắc kẹt khi mà chi phí vận hành vượt quá doanh thu đạt được (với điều kiện đáp ứng được các yêu cầu về khí thải).
Cần lưu ý là hiện nay hàng loạt quốc gia như Nhật Bản, EU tuyên bố dừng cấp tín dụng cho điện than. Hiện nay, các khoản vay ưu đãi với lãi suất thấp cho ngành năng lượng ở Việt Nam đều hướng tới năng lượng tái tạo. Do vậy, các dự án nhiệt điện than của Việt Nam sẽ không thể được hưởng lợi từ chi phí vốn thấp như trong quá khứ. Nói cách khác, các dự án xây mới nhà máy điện than sẽ phải vay vốn với chi phí cao hơn và không thể hoàn vốn trong ngắn hạn. Đây cũng là yếu tố tạo ra rủi ro về tài sản mắc kẹt nếu dự án nhiệt điện than buộc phải ngừng hoạt động trước thời gian dự kiến. ((Nhóm nghiên cứu) |
Tài sản bị mắc kẹt đối với các nhà máy nhiệt điện than khi nó không còn sinh lời như dự kiến. Về cơ bản, quy mô tài sản mắc kẹt chịu tác động chính của chi phí và doanh thu của nhà máy về khía cạnh tài chính. Có thể chia các yếu tố ảnh hưởng đến doanh thu và chi phí hoạt động này thành nhóm yếu tố khách quan (thuộc về doanh nghiệp) và yếu tố chủ quan (thuộc về bên ngoài doanh nghiệp).
Các nhà nghiên cứu đặc biệt nhấn mạnh chi phí vốn là một nhân tố tác động lớn trong nhóm các nhân tố khách quan. Bởi vì các khoản vay chiếm một phần lớn trong vốn đầu tư của các nhà máy điện than ở Việt Nam. Do đó, hiệu quả hoạt động của các nhà máy bị ảnh hưởng khá lớn bởi chi phí vốn vay. Do lãi vay đóng vai trò quan trọng trong giá thành điện sản xuất. Các bên liên quan (cho vay và đi vay) sẽ bị ảnh hưởng nếu nhà máy phải dừng hoạt động trước thời hạn cam kết trong dự án vay. Do tính toán thời hạn hoàn vốn và các chi phí liên quan trong quá trình lập dự án và đi vay,
Nhân tố cạnh tranh của các dạng năng lượng khác cũng có mặt.
Theo báo cáo của Mc Kensey (2022), Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của các cam kết quốc tế tiến tới Zero Các bon. Nhiều nhà máy điện than ở Việt Nam có tuổi đời thấp hơn so với các nhà máy ở các quốc gia phát triển, đây là nguyên nhân chính.
Một nghiên cứu của Carbon Tracker năm 2019 sử dụng phương pháp so sánh dòng tiền thuần (NPV) để xác định nguy cơ bị mắc kẹt tài sản với điện than ở các quốc gia. Theo nghiên cứu này, nguy cơ tài sản bị mắc kẹt trong kịch bản dưới C được định nghĩa là sự khác biệt giữa Giá trị hiện tại ròng (NPV) của các dòng lưu chuyển tiền mặt trong kịch bản B2DS (ngừng hoạt động toàn bộ nhà máy điện than vào năm 2040) và NPV của các dòng lưu thông tiền mặt (chỉ bao gồm những trường hợp ngừng hoạt động đã được thông báo trong điều kiện thông thường). Tuy nhiên, báo cáo của Carbon Tracker không thể tính hết những thay đổi ngoài khả năng dự báo có thể ảnh hưởng đến lợi nhuận điện than như giá hàng hóa, chính sách môi trường, cơ cấu thị trường và chi phí công nghệ.
PGS.TS Vũ Sỹ Cường
Cùng với cộng sự, Phó trưởng Bộ môn Phân tích chính sách tài chính (Học viện Tài chính)
Diễn đàn Doanh nghiệp
Tác động biến đối khí hậu đối với lĩnh vực năng lượng
Cả về phía cung và cầu điện, biến đổi khí hậu được cho là có tác động đáng kể đến hệ thống năng lượng của Việt Nam. Biến đổi khí hậu ảnh hưởng tiêu cực đáng kể đến nhu cầu điện trên toàn bộ hệ thống năng lượng, nhưng nó lại mang lại hiệu quả tích cực cho điện về mặt sản xuất điện ở Việt Nam do lượng mưa tăng lên. Tuy nhiên, mức giảm chi phí xã hội và phát thải của điện thấp hơn mức tăng thêm phát thải do tác động của biến đổi khí hậu đối với nhu cầu điện và ngược lại đối với hệ thống năng lượng, biến đổi khí hậu gây ra tác động đáng kể đến chi phí xã hội. Theo các kịch bản RCP4,5 và RCP8,5, mức tăng thêm tích lũy là 3.105,3 triệu USD và 6.726,5 triệu USD, và lượng phát thải bổ sung là 118,9 MtCO2e và 249,7 MtCO2e lần lượt vào năm 2050.
Biến đổi khí hậu tác động đến cung, cầu nguồn điện. Ảnh minh họa: Công nhân vận hành tại nhà máy nhiệt điện Nghi Sơn |
Nghiên cứu của các chuyên gia nói trên về nguồn cung cho thấy sản lượng điện ở Việt Nam nói chung có mối quan hệ đồng biến với lượng mưa. Tuy nhiên, phạm vi dự báo rộng và không chắc chắn về tác động của việc phát điện hàng năm và hàng tháng. Khả năng sản xuất năng lượng, hệ thống truyền tải hoặc chính cơ sở hạ tầng có thể bị ảnh hưởng bởi những thay đổi về lượng mưa và nhiệt độ.
Các nhà máy nhiệt điện cũng bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu. Hiệu suất phát điện của nhà máy nhiệt điện sẽ bị ảnh hưởng bởi các thay đổi về nhiệt độ không khí và nước: nhiệt độ không khí cao hơn sẽ làm giảm hiệu suất phát điện của các nhà máy nhiệt điện; nhiệt độ nước tăng có thể ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của các hệ thống làm mát. Các TSMK với nhiệt điện than được sản xuất khi nhu cầu phát thải khí nhà kính tăng lên.
Hạ tầng ngành năng lượng sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi lượng mưa và dòng chảy bất thường, ảnh hưởng đến khả năng cung ứng và điều tiết kế hoạch sản xuất điện của các nhà máy điện, gây thiệt hại, hư hỏng đến cơ sở hạ tầng cung điện, gia tăng chi phí đầu tư mới, cải tạo, sửa chữa và nâng cấp thiết bị, mạng lưới phân phối điện, giàn khoan dầu được xây dựng trên biển, hệ thống vận chuyển dầu và khí, cũng như các nhà máy điện chạy khí được xây dựng ven biển. Tình trạng khí hậu thay đổi và thời tiết cực đoan sẽ có tác động đến lĩnh vực khai thác nhiên liệu hóa thạch.
Khai thác than ở Quảng Ninh và triển vọng khai thác than nâu ở đồng bằng sông Hồng sẽ khó khăn hơn do làm tăng khả năng hao hụt, tổn thất sản lượng than do tần suất, cường độ mưa bão và lũ lụt gia tăng, tăng chi phí sản xuất, chi phí xây dựng vận hành, duy trì các hệ thống khoan và phương tiện vận chuyển.
Khai thác dầu khí ở ngoài thềm lục địa đòi hỏi công nghiệp lọc-hóa dầu phải tăng chi phí vận hành, bảo dưỡng, duy trì máy móc, phương tiện; khó khăn hơn cho hệ thống vận chuyển dầu và khí từ dàn khoan trên biển đến các nhà máy hóa-lọc dầu.
Các tiêu chuẩn về chất lượng nhiên liệu, các tiêu chuẩn hiệu suất, các tiêu chuẩn về hiệu suất năng lượng, các tiêu chuẩn về chất lượng không khí, các tiêu chuẩn về năng lượng tái tạo, các tiêu chuẩn và quy định liên quan đến phát thải và công nghệ áp dụng là một số quy định quan trọng về ứng phó với biến đổi khí hậu sẽ có tác động đến nhu cầu và chi phí sản xuất nhiên liệu và năng lượng.
Tài sản mắc kẹt với thị trường năng lượng
Những cam kết của Chính phủ Việt Nam tại COP 26 sẽ có tác động đáng kể đến tài sản của nền kinh tế nói chung và ngành điện nói riêng. Thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng xanh hơn. Các nhà máy nhiệt điện than có nguy cơ lớn nhất rơi vào tình trạng tài sản mắc kẹt.
Theo định nghĩa này, nhà máy có nguy cơ thua lỗ hoặc mất giá, rơi vào tình trạng phá sản do phải đóng cửa tổ máy sớm cho phù hợp với năm ngừng hoạt động nhằm đáp ứng các điều kiện về phát thải khí nhà kính (KNK). Nói một cách đơn giản, một nhà máy nhiệt điện rơi vào tình trạng mắc kẹt khi mà chi phí vận hành vượt quá doanh thu đạt được (với điều kiện đáp ứng được các yêu cầu về khí thải).
Cần lưu ý là hiện nay hàng loạt quốc gia như Nhật Bản, EU tuyên bố dừng cấp tín dụng cho điện than. Hiện nay, các khoản vay ưu đãi với lãi suất thấp cho ngành năng lượng ở Việt Nam đều hướng tới năng lượng tái tạo. Do vậy, các dự án nhiệt điện than của Việt Nam sẽ không thể được hưởng lợi từ chi phí vốn thấp như trong quá khứ. Nói cách khác, các dự án xây mới nhà máy điện than sẽ phải vay vốn với chi phí cao hơn và không thể hoàn vốn trong ngắn hạn. Đây cũng là yếu tố tạo ra rủi ro về tài sản mắc kẹt nếu dự án nhiệt điện than buộc phải ngừng hoạt động trước thời gian dự kiến. ((Nhóm nghiên cứu) |
Tài sản bị mắc kẹt đối với các nhà máy nhiệt điện than khi nó không còn sinh lời như dự kiến. Về cơ bản, quy mô tài sản mắc kẹt chịu tác động chính của chi phí và doanh thu của nhà máy về khía cạnh tài chính. Có thể chia các yếu tố ảnh hưởng đến doanh thu và chi phí hoạt động này thành nhóm yếu tố khách quan (thuộc về doanh nghiệp) và yếu tố chủ quan (thuộc về bên ngoài doanh nghiệp).
Các nhà nghiên cứu đặc biệt nhấn mạnh chi phí vốn là một nhân tố tác động lớn trong nhóm các nhân tố khách quan. Bởi vì các khoản vay chiếm một phần lớn trong vốn đầu tư của các nhà máy điện than ở Việt Nam. Do đó, hiệu quả hoạt động của các nhà máy bị ảnh hưởng khá lớn bởi chi phí vốn vay. Do lãi vay đóng vai trò quan trọng trong giá thành điện sản xuất. Các bên liên quan (cho vay và đi vay) sẽ bị ảnh hưởng nếu nhà máy phải dừng hoạt động trước thời hạn cam kết trong dự án vay. Do tính toán thời hạn hoàn vốn và các chi phí liên quan trong quá trình lập dự án và đi vay,
Nhân tố cạnh tranh của các dạng năng lượng khác cũng có mặt.
Theo báo cáo của Mc Kensey (2022), Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của các cam kết quốc tế tiến tới Zero Các bon. Nhiều nhà máy điện than ở Việt Nam có tuổi đời thấp hơn so với các nhà máy ở các quốc gia phát triển, đây là nguyên nhân chính.
Một nghiên cứu của Carbon Tracker năm 2019 sử dụng phương pháp so sánh dòng tiền thuần (NPV) để xác định nguy cơ bị mắc kẹt tài sản với điện than ở các quốc gia. Theo nghiên cứu này, nguy cơ tài sản bị mắc kẹt trong kịch bản dưới C được định nghĩa là sự khác biệt giữa Giá trị hiện tại ròng (NPV) của các dòng lưu chuyển tiền mặt trong kịch bản B2DS (ngừng hoạt động toàn bộ nhà máy điện than vào năm 2040) và NPV của các dòng lưu thông tiền mặt (chỉ bao gồm những trường hợp ngừng hoạt động đã được thông báo trong điều kiện thông thường). Tuy nhiên, báo cáo của Carbon Tracker không thể tính hết những thay đổi ngoài khả năng dự báo có thể ảnh hưởng đến lợi nhuận điện than như giá hàng hóa, chính sách môi trường, cơ cấu thị trường và chi phí công nghệ.
PGS.TS Vũ Sỹ Cường
Cùng với cộng sự, Phó trưởng Bộ môn Phân tích chính sách tài chính (Học viện Tài chính)
Diễn đàn Doanh nghiệp
Cập nhật tin tức công nghệ mới nhất tại fanpage Công nghệ & Cuộc sống