Năng lượng tái tạo là xu hướng năng lượng mới (Ảnh tư liệu) |
Biến đổi khí hậu và thực trạng sử dụng năng lượng trên thế giới đã tạo ra sự dịch chuyển trên toàn cầu về triết lý phát triển, môi trường thể chế, quan điểm chính sách... dẫn đến những thay đổi đáng kể trong mọi lĩnh vực của đời sống và quy trình sản xuất của các nước, các lĩnh vực. Quá trình "chuyển dịch năng lượng" đang diễn ra đặc biệt là quá trình đó.
Dự thảo Luật Dầu khí (sửa đổi) được đưa ra lấy ý kiến chưa đề cập đến bối cảnh của việc chuyển dịch năng lượng, trong khi ngành dầu khí là ngành chịu tác động trực tiếp.
Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chiến lược Việt Nam (VESS), cơ quan điều phối Liên minh Công bằng thuế Việt Nam (VATJ), đã công bố kết quả nghiên cứu "Xu hướng chuyển dịch năng lượng và hàm ý chính sách đối với ngành dầu khí Việt Nam" vào ngày 19 tháng 10 năm 2014, tại Hà Nội.
Nghiên cứu này nhằm xác định xu hướng chuyển dịch năng lượng trên thế giới và hiểu các tác động tiềm tàng của nó đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và với ngành dầu khí ở nước ta nói riêng.
Nghiên cứu là tài liệu tham khảo có giá trị với những phân tích chuyên sâu về ngành dầu khí, cung cấp đầu vào cho các nhà hoạch định chính sách ở Việt Nam trong quá trình tiếp thu ý kiến, thảo luận và đưa ra các kiến nghị về việc sửa đổi một số nội dung của Luật Dầu khí cũng như ban hành các chiến lược phát triển cho ngành dầu khí.
Chuyển dịch năng lượng là tất yếu
Sự chuyển dịch này được giải thích vì hiện tượng nóng lên toàn cầu là do ảnh hưởng của khí nhà kính, với thành phần chủ yếu là CO2 (65%); 74,1% CO2 phát thải từ ngành năng lượng, bao gồm ngành điện, vận tải, sản xuất và xây dựng.
Ngoài ra, nguồn nhiên liệu hóa thạch không được phân bố đồng đều trên Trái đất, gây ra sự bất bình đẳng ở các quốc gia kém tài nguyên trong việc tiếp cận nguồn nhiên liệu phục vụ cho phát triển. Các vấn đề về kinh tế và xã hội ở trong nước sẽ bị ảnh hưởng bởi phụ thuộc vào nguồn cung từ nước ngoài.
Đáng chú ý, Trung Quốc đã giảm điện than và nhiên liệu hóa thạch với cam kết giảm CO2/đơn vị GDP hơn 65% so với mức năm 2005, nâng sản lượng điện sạch, tỷ trọng nhiên liệu phi hóa thạch lên 25% vào năm 2030.
Ngoài ra, Hoa Kỳ đã cam kết giảm CO2đơn vị GDP ít nhất 50% so với mức 2005, thay thế các nguồn nhiên liệu hóa thạch và điện khí hóa các ngành công nghiệp và giao thông vận tải vào năm 2030. Điều này cũng dẫn đến giảm phát thải CO2 do giảm điện than và tăng điện khí.
Ngành công nghiệp Nhật Bản phụ thuộc chủ yếu vào nguồn nhiên liệu hóa thạch nhập khẩu (than, dầu và khí). Nhật Bản đã bắt đầu đầu tư vào năng lượng hạt nhân và năng lượng tái tạo vào năm 1973 do ảnh hưởng của sự thay đổi chính sách OPEC. Nhật Bản là quốc gia dẫn đầu về pin quang điện (PV) được lắp đặt vào năm 1990. Nhu cầu về năng lượng từ dầu mỏ giảm từ 77% (1973) xuống 37% (2021), với mức giảm 1,5%/năm tới 2050. Sau sự cố 2011, Nhật Bản cũng giảm tỷ trọng phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch. Điện khí tăng nhanh nhất (28% năm 2010 lên 42% năm 2014) sau khi Nhật Bản cắt giảm năng lượng hạt nhân cho sản xuất điện và tăng tỷ trọng của điện hóa thạch. Năng lượng tái tạo (NLTT) tăng từ 20% lên 36-38%, năng lượng hạt nhân (NLHN) tăng từ 7% lên 20-22%, và điện năng 20%. Kế hoạch Năng lượng Chiến lược Cơ bản lần 6: Vào năm 2030, năng lượng tái tạo (NLT) tăng từ 20% lên 38–40%.
Theo phân tích với khu vực Liên minh châu Âu (EU), EU nhập khẩu 58% năng lượng từ các quốc gia bên ngoài vào năm 2020. Cùng năm đó, EU nhập 24% năng lượng từ Nga, trong đó đáp ứng 37% nhu cầu dầu, 41% nhu cầu khí tự nhiên và 19% nhu cầu than của khu vực. Các quốc gia EU đang tìm cách ngăn chặn ảnh hưởng của địa chính trị đối với năng lượng trong bối cảnh xung đột tại Ucraina. Được biết, cơ cấu năng lượng của EU năm 2021 như sau: Dầu và các sản phẩm từ dầu chiếm 35%; Than chiếm 11%; Khí tự nhiên chiếm 24%; 70% tổng năng lượng của EU là năng lượng hóa thạch, vì vậy đây là động lực để thay đổi cơ cấu năng lượng thay vì phụ thuộc vào nhập khẩu năng lượng. Do đó, EU đang tìm cách tăng sản xuất điện tái tạo để giảm lượng than (điện than). Trong đó, sản xuất xe điện để giảm số lượng phương tiện chạy bằng xăng dầu. 6,7 triệu đơn vị điện được cho là cần thiết hàng năm vào năm 2030. EU cần 113 TWh điện (5% tổng nhu cầu điện) cho các trạm sạc và 6,8 triệu trạm sạc vào năm 2030 (ACEA, 2022). Ngoài ra, EU đang tìm cách đa dạng hóa nguồn khí đốt. Chỉ 12% trong số tất cả các nguồn năng lượng tiêu thụ năm 2021 đến từ Nga. Giải pháp là thay thế khí đốt từ Nga bằng khí tự nhiên hóa lỏng LNG từ Mỹ, tăng sản xuất ở Hà Lan và nhập khẩu từ Na Uy, Bắc Phi.
Kết quả nghiên cứu cho thấy năng lượng tái tạo biến đổi (VRE) có xu hướng chiếm tỷ trọng cao. Chỉ có hơn 30 quốc gia có tỷ trọng phát điện VRE cao hơn 5% vào năm 2015. Khoảng 80 quốc gia có tỷ trọng trên 5% vào năm 2024. Trung Quốc, Ấn Độ, Châu Âu và Hoa Kỳ được dự đoán sẽ có tỷ trọng trên 30%. Các phương tiện chạy bằng nhiên liệu hóa thạch sẽ được thay thế bằng xe điện. Chỉ có 130.000 xe điện được bán trên toàn cầu vào năm 2012. Có 2,2 triệu xe vào năm 2019, chiếm 2,5% tổng doanh số ô tô toàn cầu. Mặc dù thị trường bị thu hẹp do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế, nhưng có 6,6 triệu xe vào năm 2021, chiếm 9%. Các doanh nghiệp đã đầu tư, thử nghiệm vào hệ thống sạc điện tích hợp vào chuỗi giá trị của hệ thống xăng dầu sẵn có, cũng như kết hợp tổng thể trong chuỗi giá trị thượng nguồn (khai thác khí) và hạ nguồn (nhà máy điện). Nếu các quốc gia được đặt trong bối cảnh hướng tới mục tiêu đưa phát thải về 0, NLTT có thể tạo ra 10,3 triệu việc làm vào năm 2030 và thậm chí có thể tăng lên 22,7 triệu việc làm.
chuyển dịch năng lượng ở Việt Nam
Ngành dầu khí cần chủ động trong chuyển dịch năng lượng (Ảnh: PV) |
Phát triển kinh tế và phát thải CO2 của các loại nhiên liệu ở Việt Nam thay đổi đáng kể theo từng giai đoạn. Năng lượng hóa thạch đặc biệt quan trọng trong giai đoạn 1990–2020 để đảm bảo an ninh năng lượng cho phát triển kinh tế. Đặc biệt, than và dầu chiếm 95% (20 triệu tấn CO2tđ) tổng lượng phát thải của các loại nhiên liệu vào năm 1990. Than và dầu chỉ còn chiếm 73% trong năm 2020, nhưng đã tăng gấp hơn 9 lần (185 triệu tấn CO2tĐ).
Theo Khảo sát của WB, BĐKK đã mất 10 tỷ USD, tương đương 3,2% GDP của Việt Nam, vào năm 2020.
liên quan đến an ninh năng lượng ở Việt Nam. Về mức điện tiêu thụ, Việt Nam đứng thứ 22 trên thế giới và thứ 2 trong khu vực ASEAN vào năm 2019, chỉ sau Indonesia. Từ 5,1 TWh (1985) lên 244,7 TWh (2021), sản lượng điện đã tăng gần 50 lần. Công suất phát điện cần tăng hơn gấp đôi trong thập ký tới do tỷ lệ tăng trung bình 10%/năm. Tăng trưởng thuỷ điện đã đạt đến giới hạn phát triển. Mặc dù điện than hiện chiếm tỷ trọng đáng kể nhưng nó cũng có nhiều tác động bất lợi và là một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm không khí dẫn đến hơn 60.000 ca tử vong vào năm 2016. Để đảm bảo an ninh năng lượng và lựa chọn một giải pháp xanh hơn cho ngành năng lượng, nghiên cứu khuyên rằng Việt Nam nên chuyển dần sang năng lượng tái tạo.
Việt Nam được xếp hạng thứ 61/115 quốc gia về mức độ sẵn sàng chuyển dịch vào năm 2021. Được đánh giá cao bởi hạ tầng và môi trường kinh doanh, quy định và cam kết chính sách, vốn và đầu tư, thể chế và quản trị, vốn nhân lực và sự tham gia của khách hàng, nhưng cũng bị hạn chế bởi cơ cấu hệ thống năng lượng.
Mặc dù vậy, Việt Nam vẫn là một trong những quốc gia đầu tiên trình bản cập nhật của Đóng góp quốc gia tự quyết định (NDC) lên UNFCCC vào năm 2020. Theo Kịch bản Phát triển thông thường (BAU), tổng lượng phát thải năm 2030 là 928 triệu tấn CO2tđ (Năng lượng chiếm 678). 844,1 triệu tấn CO2tĐ (NL chiếm 627), theo Kich bản nguồn lực trong nước (9%). 677,2 triệu tấn CO2t đ (NL chiếm 523), theo Kịch bản có hỗ trợ quốc tế (27%).
Thuỷ điện, khí tự nhiên và than là ba nguồn chính tạo nên sản xuất điện của Việt Nam. Tuy nhiên, dư địa để phát triển thuỷ điện không còn nhiều. Điện than và điện khí được tập trung phát triển. Điện khí đạt mức cao nhất gấp ba lần điện than vào năm 2010 nhờ sự phát triển mạnh mẽ của điện khí từ năm 1999 đến năm 2014. Tuy nhiên, điện than đã được chọn làm trụ cột từ các bản QHĐ VI (2007), QHĐ VII (2011) và QHĐ VII hiệu chỉnh (2016). Sản lượng than đã vượt qua sản lượng khí vào năm 2015 và tăng trung bình 13% mỗi năm.
NLTT và điện khí sẽ chiếm tỷ trọng lớn nhất, thay thế các loại NLHT khác, theo quy hoạch điện VIII (T7/2023). Tỷ trọng than sẽ giảm còn 26% (2030) và 10% (2045). NLTT tăng từ 5% lên 22% (2030) và 52% (2045). Tỷ trọng điện khí tăng lên 22% (2030) và giảm xuống 19% (2045). Từ 10.000MW (2020) đến 73.630 MW (2045), điện khí sẽ tăng khoảng 7 lần.
Cũng theo quy hoạch điện VIII, mục tiêu công suất LNG đạt 23.900 MW vào năm 2030, với nhu cầu nhập khẩu 14-18 tỷ m3/năm. Khoảng 20 nhà máy nhiệt điện LNG đang được xây dựng trên toàn quốc vào năm 2022. Tuy nhiên, một số trong số chúng vẫn chưa tìm thấy nguồn nhiên liệu. Do đó, Việt Nam có thể xem xét nhập khẩu từ một số nguồn như: Nếu xét về lợi thế giá: Hoa Kỳ với thị trường khí truyền thống như khí đá phiến. Nếu xét về yếu tố địa lý: Úc và Qatar với sự thuận lợi về vận chuyển đến Việt Nam.
Dầu khí Việt Nam
Luật Dầu khí 1993 được thông qua lần đầu tiên. Theo đó, chính phủ sẽ có thẩm quyền toàn bộ đối với công tác quản lý NN về hoạt động dầu khí. Luật được sửa đổi và bổ sung 2000 và 2008 n Các quy định chỉ giới hạn ở các hoạt động thượng nguồn. Vẫn bị hạn chế ở các hoạt động tìm kiếm thăm dò, phát triển mỏ và khai thác. Các luật khác điều chỉnh các khâu trung nguồn (vận chuyển, lưu trữ, phân phối dầu khí) và hạ nguồn (chế biến, lọc, hóa dầu).
Áp dụng khó khăn trong việc thu hút đầu tư vào chuỗi giá trị từ thượng nguồn đến hạ nguồn. Các loại dầu khí phi truyền thống chưa được định nghĩa rõ ràng. Điều 3 của Dự thảo Luật DK sửa đổi (7/2022) đã đề cập đến khái niệm "dầu khí", bao gồm dầu khí phi truyền thống. Tuy nhiên, các hoạt động điều tra thăm dò và khai thác các loại tài nguyên này vẫn chưa được quy định cụ thể.
Quy định, hướng dẫn cụ thể là cần thiết vì có tính chất, đặc điểm phân bố khác với dầu khí truyền thống.
Do số lượng hợp đồng dầu khí được ký kết gần đây giảm, Bộ Công Thương đề nghị tạo ra luật dầu khí nhằm điều chỉnh sắc thuế và tỷ lệ thu hồi chi phí để thu hút đầu tư nước ngoài. Đối với lô dầu khí được hưởng chính sách ưu đãi đầu tư đặc biệt, mức thu hồi chi phí tối đa được đề xuất lên tới 80%. Nhà đầu tư có thể được áp dụng mức giảm thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp từ 25% đến 50% đối với các dự án đặc biệt ưu đãi. Thu hút đầu tư không bị ảnh hưởng bởi ưu đãi thuế. Ngoài ra, các quy định của Luật Dầu khí hiện hành chỉ đề cập đến việc giải quyết tranh chấp giữa PVN và nhà thầu đối tác, chưa bao gồm cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà nước Việt Nam và nhà đầu tư quốc tế.
Năng lượng tái tạo biến đổi (VRE), chẳng hạn như năng lượng mặt trời và năng lượng gió, hiện đang đinh hướng giúp giảm phát thải carbon và định hình lại ngành điện. Điện khí đóng vai trò là nguồn năng lượng trung gian, hỗ trợ chuyển đổi sang năng lượng sạch và có xu hướng tăng trưởng trong tương lai.
Theo hướng tới năm 2030, sẽ có 10,3 triệu số việc làm ròng được tạo ra trong ngành năng lượng tái tạo và các ngành liên quan; nếu tuân thủ mục tiêu đưa phát thải về "0", con số này thậm chí có thể lên tới 22,7 triệu. Mất 9,5 triệu việc làm trong lĩnh vực năng lượng hóa thạch được cho là có tác động lớn nhất đến lao động. Một bộ phận của lực lượng lao động trong ngành năng lượng hóa thạch có thể không đáp ứng được các yêu cầu về tuổi tác hoặc kỹ năng trong quá trình chuyển dịch.
Ngoài ra, xu hướng chuyển dịch năng lượng gắn liền với sự tăng trưởng nhanh chóng của nền kinh tế, tiến trình đô thị hóa và công nghiệp hóa ở Việt Nam trong vòng 30 năm qua và dựa nhiều vào nguồn năng lượng than và dầu đã tạo ra một lượng đáng kể khí thải nhà kính, một trong những nguyên nhân chính gây ra biến đổi khí hậu. Theo ước tính của Ngân hàng Thế giới, biến đổi khí hậu đã tiêu tốn của Việt Nam 10 tỷ USD vào năm 2020, tương đương 3,2% GDP.
Trong chỉ số Chuyển dịch năng lượng của Diễn đàn kinh tế thế giới năm 2021, Việt Nam được xếp hạng 61 trong tổng số 115 quốc gia về mức độ sẵn sàng chuyển dịch năng lượng, tăng 8 bậc và 3 điểm so với bảng xếp hạng năm 2020. Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trình bản cập nhật của Đóng góp quốc gia tự quyết định (NDC) lên UNFCCC vào năm 2020, cam kết giảm phát thải khí nhà kính. Các ngành năng lượng như ngành giao thông vận tải và ngành điện có xu hướng thay đổi nhiều nhất để tuân thủ cam kết của Việt Nam về giảm phát thải khí khí nhà kính. Ngành dầu khí, với vai trò là nhà cung cấp nhiên liệu đầu vào cho các ngành trên, cũng đang đối mặt với các cơ hội và khó khăn trong bối cảnh chuyển dịch năng lượng trên toàn cầu.
Luật Dầu khí mới chỉ đề cập đến các hoạt động ở khâu thượng nguồn của ngành dầu khí; nó không bao gồm các hoạt động ở trung tâm và hạ nguồn. Do đó, sẽ có hiện tượng xung đột và chồng chéo trong quá trình quản lý chuỗi giá trị dầu khí. Do đó, cần phải đưa vào Dự thảo các quy định liên quan đến hoạt động dầu khí ở khâu trung và hạ nguồn. Các ưu đãi thuế không phải là yếu tố quan trọng trong việc phá vỡ rào cản thu hút đầu tư. Việc lựa chọn đầu tư của một nhà đầu tư nước ngoài sẽ phụ thuộc vào việc cải thiện môi trường kinh doanh. Để giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng và tránh tình trạng tranh chấp kéo dài gây tổn hại cho ngân sách nhà nước, cần phải bổ sung và luật hóa các cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà nước Việt Nam và các nhà đầu tư quốc tế. Các quy định về điều tra, thăm dò và khai thác dầu khí phi truyền thống phải được xem xét và bổ sung. Các loại dầu khí phi truyền thống có phương pháp phân bố, hóa học và khai thác khác với dầu khí truyền thống, đòi hỏi phải có quy định và hướng dẫn cụ thể. Ngoài ra, Việt Nam cần phải tăng cường khai thác các mỏ khí đốt tiềm năng thay vì duy trì sản lượng hiện tại. Vì điện khí vẫn là một nhân tố quan trọng trong việc thay thế dần các nguồn nhiệt điện than và hỗ trợ quá trình chuyển đổi năng lượng tái tạo. Để bảo vệ lợi ích của mình trong tổng thể lợi ích chung, ngành, ngành dầu khí tích cực tham gia vào quá trình thiết kế toàn bộ thị trường năng lượng Việt Nam với tầm nhìn dài hạn.
Năng lượng tái tạo là xu hướng năng lượng mới (Ảnh tư liệu) |
Biến đổi khí hậu và thực trạng sử dụng năng lượng trên thế giới đã tạo ra sự dịch chuyển trên toàn cầu về triết lý phát triển, môi trường thể chế, quan điểm chính sách... dẫn đến những thay đổi đáng kể trong mọi lĩnh vực của đời sống và quy trình sản xuất của các nước, các lĩnh vực. Quá trình "chuyển dịch năng lượng" đang diễn ra đặc biệt là quá trình đó.
Dự thảo Luật Dầu khí (sửa đổi) được đưa ra lấy ý kiến chưa đề cập đến bối cảnh của việc chuyển dịch năng lượng, trong khi ngành dầu khí là ngành chịu tác động trực tiếp.
Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chiến lược Việt Nam (VESS), cơ quan điều phối Liên minh Công bằng thuế Việt Nam (VATJ), đã công bố kết quả nghiên cứu "Xu hướng chuyển dịch năng lượng và hàm ý chính sách đối với ngành dầu khí Việt Nam" vào ngày 19 tháng 10 năm 2014, tại Hà Nội.
Nghiên cứu này nhằm xác định xu hướng chuyển dịch năng lượng trên thế giới và hiểu các tác động tiềm tàng của nó đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và với ngành dầu khí ở nước ta nói riêng.
Nghiên cứu là tài liệu tham khảo có giá trị với những phân tích chuyên sâu về ngành dầu khí, cung cấp đầu vào cho các nhà hoạch định chính sách ở Việt Nam trong quá trình tiếp thu ý kiến, thảo luận và đưa ra các kiến nghị về việc sửa đổi một số nội dung của Luật Dầu khí cũng như ban hành các chiến lược phát triển cho ngành dầu khí.
Chuyển dịch năng lượng là tất yếu
Sự chuyển dịch này được giải thích vì hiện tượng nóng lên toàn cầu là do ảnh hưởng của khí nhà kính, với thành phần chủ yếu là CO2 (65%); 74,1% CO2 phát thải từ ngành năng lượng, bao gồm ngành điện, vận tải, sản xuất và xây dựng.
Ngoài ra, nguồn nhiên liệu hóa thạch không được phân bố đồng đều trên Trái đất, gây ra sự bất bình đẳng ở các quốc gia kém tài nguyên trong việc tiếp cận nguồn nhiên liệu phục vụ cho phát triển. Các vấn đề về kinh tế và xã hội ở trong nước sẽ bị ảnh hưởng bởi phụ thuộc vào nguồn cung từ nước ngoài.
Đáng chú ý, Trung Quốc đã giảm điện than và nhiên liệu hóa thạch với cam kết giảm CO2/đơn vị GDP hơn 65% so với mức năm 2005, nâng sản lượng điện sạch, tỷ trọng nhiên liệu phi hóa thạch lên 25% vào năm 2030.
Ngoài ra, Hoa Kỳ đã cam kết giảm CO2đơn vị GDP ít nhất 50% so với mức 2005, thay thế các nguồn nhiên liệu hóa thạch và điện khí hóa các ngành công nghiệp và giao thông vận tải vào năm 2030. Điều này cũng dẫn đến giảm phát thải CO2 do giảm điện than và tăng điện khí.
Ngành công nghiệp Nhật Bản phụ thuộc chủ yếu vào nguồn nhiên liệu hóa thạch nhập khẩu (than, dầu và khí). Nhật Bản đã bắt đầu đầu tư vào năng lượng hạt nhân và năng lượng tái tạo vào năm 1973 do ảnh hưởng của sự thay đổi chính sách OPEC. Nhật Bản là quốc gia dẫn đầu về pin quang điện (PV) được lắp đặt vào năm 1990. Nhu cầu về năng lượng từ dầu mỏ giảm từ 77% (1973) xuống 37% (2021), với mức giảm 1,5%/năm tới 2050. Sau sự cố 2011, Nhật Bản cũng giảm tỷ trọng phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch. Điện khí tăng nhanh nhất (28% năm 2010 lên 42% năm 2014) sau khi Nhật Bản cắt giảm năng lượng hạt nhân cho sản xuất điện và tăng tỷ trọng của điện hóa thạch. Năng lượng tái tạo (NLTT) tăng từ 20% lên 36-38%, năng lượng hạt nhân (NLHN) tăng từ 7% lên 20-22%, và điện năng 20%. Kế hoạch Năng lượng Chiến lược Cơ bản lần 6: Vào năm 2030, năng lượng tái tạo (NLT) tăng từ 20% lên 38–40%.
Theo phân tích với khu vực Liên minh châu Âu (EU), EU nhập khẩu 58% năng lượng từ các quốc gia bên ngoài vào năm 2020. Cùng năm đó, EU nhập 24% năng lượng từ Nga, trong đó đáp ứng 37% nhu cầu dầu, 41% nhu cầu khí tự nhiên và 19% nhu cầu than của khu vực. Các quốc gia EU đang tìm cách ngăn chặn ảnh hưởng của địa chính trị đối với năng lượng trong bối cảnh xung đột tại Ucraina. Được biết, cơ cấu năng lượng của EU năm 2021 như sau: Dầu và các sản phẩm từ dầu chiếm 35%; Than chiếm 11%; Khí tự nhiên chiếm 24%; 70% tổng năng lượng của EU là năng lượng hóa thạch, vì vậy đây là động lực để thay đổi cơ cấu năng lượng thay vì phụ thuộc vào nhập khẩu năng lượng. Do đó, EU đang tìm cách tăng sản xuất điện tái tạo để giảm lượng than (điện than). Trong đó, sản xuất xe điện để giảm số lượng phương tiện chạy bằng xăng dầu. 6,7 triệu đơn vị điện được cho là cần thiết hàng năm vào năm 2030. EU cần 113 TWh điện (5% tổng nhu cầu điện) cho các trạm sạc và 6,8 triệu trạm sạc vào năm 2030 (ACEA, 2022). Ngoài ra, EU đang tìm cách đa dạng hóa nguồn khí đốt. Chỉ 12% trong số tất cả các nguồn năng lượng tiêu thụ năm 2021 đến từ Nga. Giải pháp là thay thế khí đốt từ Nga bằng khí tự nhiên hóa lỏng LNG từ Mỹ, tăng sản xuất ở Hà Lan và nhập khẩu từ Na Uy, Bắc Phi.
Kết quả nghiên cứu cho thấy năng lượng tái tạo biến đổi (VRE) có xu hướng chiếm tỷ trọng cao. Chỉ có hơn 30 quốc gia có tỷ trọng phát điện VRE cao hơn 5% vào năm 2015. Khoảng 80 quốc gia có tỷ trọng trên 5% vào năm 2024. Trung Quốc, Ấn Độ, Châu Âu và Hoa Kỳ được dự đoán sẽ có tỷ trọng trên 30%. Các phương tiện chạy bằng nhiên liệu hóa thạch sẽ được thay thế bằng xe điện. Chỉ có 130.000 xe điện được bán trên toàn cầu vào năm 2012. Có 2,2 triệu xe vào năm 2019, chiếm 2,5% tổng doanh số ô tô toàn cầu. Mặc dù thị trường bị thu hẹp do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế, nhưng có 6,6 triệu xe vào năm 2021, chiếm 9%. Các doanh nghiệp đã đầu tư, thử nghiệm vào hệ thống sạc điện tích hợp vào chuỗi giá trị của hệ thống xăng dầu sẵn có, cũng như kết hợp tổng thể trong chuỗi giá trị thượng nguồn (khai thác khí) và hạ nguồn (nhà máy điện). Nếu các quốc gia được đặt trong bối cảnh hướng tới mục tiêu đưa phát thải về 0, NLTT có thể tạo ra 10,3 triệu việc làm vào năm 2030 và thậm chí có thể tăng lên 22,7 triệu việc làm.
chuyển dịch năng lượng ở Việt Nam
Ngành dầu khí cần chủ động trong chuyển dịch năng lượng (Ảnh: PV) |
Phát triển kinh tế và phát thải CO2 của các loại nhiên liệu ở Việt Nam thay đổi đáng kể theo từng giai đoạn. Năng lượng hóa thạch đặc biệt quan trọng trong giai đoạn 1990–2020 để đảm bảo an ninh năng lượng cho phát triển kinh tế. Đặc biệt, than và dầu chiếm 95% (20 triệu tấn CO2tđ) tổng lượng phát thải của các loại nhiên liệu vào năm 1990. Than và dầu chỉ còn chiếm 73% trong năm 2020, nhưng đã tăng gấp hơn 9 lần (185 triệu tấn CO2tĐ).
Theo Khảo sát của WB, BĐKK đã mất 10 tỷ USD, tương đương 3,2% GDP của Việt Nam, vào năm 2020.
liên quan đến an ninh năng lượng ở Việt Nam. Về mức điện tiêu thụ, Việt Nam đứng thứ 22 trên thế giới và thứ 2 trong khu vực ASEAN vào năm 2019, chỉ sau Indonesia. Từ 5,1 TWh (1985) lên 244,7 TWh (2021), sản lượng điện đã tăng gần 50 lần. Công suất phát điện cần tăng hơn gấp đôi trong thập ký tới do tỷ lệ tăng trung bình 10%/năm. Tăng trưởng thuỷ điện đã đạt đến giới hạn phát triển. Mặc dù điện than hiện chiếm tỷ trọng đáng kể nhưng nó cũng có nhiều tác động bất lợi và là một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm không khí dẫn đến hơn 60.000 ca tử vong vào năm 2016. Để đảm bảo an ninh năng lượng và lựa chọn một giải pháp xanh hơn cho ngành năng lượng, nghiên cứu khuyên rằng Việt Nam nên chuyển dần sang năng lượng tái tạo.
Việt Nam được xếp hạng thứ 61/115 quốc gia về mức độ sẵn sàng chuyển dịch vào năm 2021. Được đánh giá cao bởi hạ tầng và môi trường kinh doanh, quy định và cam kết chính sách, vốn và đầu tư, thể chế và quản trị, vốn nhân lực và sự tham gia của khách hàng, nhưng cũng bị hạn chế bởi cơ cấu hệ thống năng lượng.
Mặc dù vậy, Việt Nam vẫn là một trong những quốc gia đầu tiên trình bản cập nhật của Đóng góp quốc gia tự quyết định (NDC) lên UNFCCC vào năm 2020. Theo Kịch bản Phát triển thông thường (BAU), tổng lượng phát thải năm 2030 là 928 triệu tấn CO2tđ (Năng lượng chiếm 678). 844,1 triệu tấn CO2tĐ (NL chiếm 627), theo Kich bản nguồn lực trong nước (9%). 677,2 triệu tấn CO2t đ (NL chiếm 523), theo Kịch bản có hỗ trợ quốc tế (27%).
Thuỷ điện, khí tự nhiên và than là ba nguồn chính tạo nên sản xuất điện của Việt Nam. Tuy nhiên, dư địa để phát triển thuỷ điện không còn nhiều. Điện than và điện khí được tập trung phát triển. Điện khí đạt mức cao nhất gấp ba lần điện than vào năm 2010 nhờ sự phát triển mạnh mẽ của điện khí từ năm 1999 đến năm 2014. Tuy nhiên, điện than đã được chọn làm trụ cột từ các bản QHĐ VI (2007), QHĐ VII (2011) và QHĐ VII hiệu chỉnh (2016). Sản lượng than đã vượt qua sản lượng khí vào năm 2015 và tăng trung bình 13% mỗi năm.
NLTT và điện khí sẽ chiếm tỷ trọng lớn nhất, thay thế các loại NLHT khác, theo quy hoạch điện VIII (T7/2023). Tỷ trọng than sẽ giảm còn 26% (2030) và 10% (2045). NLTT tăng từ 5% lên 22% (2030) và 52% (2045). Tỷ trọng điện khí tăng lên 22% (2030) và giảm xuống 19% (2045). Từ 10.000MW (2020) đến 73.630 MW (2045), điện khí sẽ tăng khoảng 7 lần.
Cũng theo quy hoạch điện VIII, mục tiêu công suất LNG đạt 23.900 MW vào năm 2030, với nhu cầu nhập khẩu 14-18 tỷ m3/năm. Khoảng 20 nhà máy nhiệt điện LNG đang được xây dựng trên toàn quốc vào năm 2022. Tuy nhiên, một số trong số chúng vẫn chưa tìm thấy nguồn nhiên liệu. Do đó, Việt Nam có thể xem xét nhập khẩu từ một số nguồn như: Nếu xét về lợi thế giá: Hoa Kỳ với thị trường khí truyền thống như khí đá phiến. Nếu xét về yếu tố địa lý: Úc và Qatar với sự thuận lợi về vận chuyển đến Việt Nam.
Dầu khí Việt Nam
Luật Dầu khí 1993 được thông qua lần đầu tiên. Theo đó, chính phủ sẽ có thẩm quyền toàn bộ đối với công tác quản lý NN về hoạt động dầu khí. Luật được sửa đổi và bổ sung 2000 và 2008 n Các quy định chỉ giới hạn ở các hoạt động thượng nguồn. Vẫn bị hạn chế ở các hoạt động tìm kiếm thăm dò, phát triển mỏ và khai thác. Các luật khác điều chỉnh các khâu trung nguồn (vận chuyển, lưu trữ, phân phối dầu khí) và hạ nguồn (chế biến, lọc, hóa dầu).
Áp dụng khó khăn trong việc thu hút đầu tư vào chuỗi giá trị từ thượng nguồn đến hạ nguồn. Các loại dầu khí phi truyền thống chưa được định nghĩa rõ ràng. Điều 3 của Dự thảo Luật DK sửa đổi (7/2022) đã đề cập đến khái niệm "dầu khí", bao gồm dầu khí phi truyền thống. Tuy nhiên, các hoạt động điều tra thăm dò và khai thác các loại tài nguyên này vẫn chưa được quy định cụ thể.
Quy định, hướng dẫn cụ thể là cần thiết vì có tính chất, đặc điểm phân bố khác với dầu khí truyền thống.
Do số lượng hợp đồng dầu khí được ký kết gần đây giảm, Bộ Công Thương đề nghị tạo ra luật dầu khí nhằm điều chỉnh sắc thuế và tỷ lệ thu hồi chi phí để thu hút đầu tư nước ngoài. Đối với lô dầu khí được hưởng chính sách ưu đãi đầu tư đặc biệt, mức thu hồi chi phí tối đa được đề xuất lên tới 80%. Nhà đầu tư có thể được áp dụng mức giảm thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp từ 25% đến 50% đối với các dự án đặc biệt ưu đãi. Thu hút đầu tư không bị ảnh hưởng bởi ưu đãi thuế. Ngoài ra, các quy định của Luật Dầu khí hiện hành chỉ đề cập đến việc giải quyết tranh chấp giữa PVN và nhà thầu đối tác, chưa bao gồm cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà nước Việt Nam và nhà đầu tư quốc tế.
Năng lượng tái tạo biến đổi (VRE), chẳng hạn như năng lượng mặt trời và năng lượng gió, hiện đang đinh hướng giúp giảm phát thải carbon và định hình lại ngành điện. Điện khí đóng vai trò là nguồn năng lượng trung gian, hỗ trợ chuyển đổi sang năng lượng sạch và có xu hướng tăng trưởng trong tương lai.
Theo hướng tới năm 2030, sẽ có 10,3 triệu số việc làm ròng được tạo ra trong ngành năng lượng tái tạo và các ngành liên quan; nếu tuân thủ mục tiêu đưa phát thải về "0", con số này thậm chí có thể lên tới 22,7 triệu. Mất 9,5 triệu việc làm trong lĩnh vực năng lượng hóa thạch được cho là có tác động lớn nhất đến lao động. Một bộ phận của lực lượng lao động trong ngành năng lượng hóa thạch có thể không đáp ứng được các yêu cầu về tuổi tác hoặc kỹ năng trong quá trình chuyển dịch.
Ngoài ra, xu hướng chuyển dịch năng lượng gắn liền với sự tăng trưởng nhanh chóng của nền kinh tế, tiến trình đô thị hóa và công nghiệp hóa ở Việt Nam trong vòng 30 năm qua và dựa nhiều vào nguồn năng lượng than và dầu đã tạo ra một lượng đáng kể khí thải nhà kính, một trong những nguyên nhân chính gây ra biến đổi khí hậu. Theo ước tính của Ngân hàng Thế giới, biến đổi khí hậu đã tiêu tốn của Việt Nam 10 tỷ USD vào năm 2020, tương đương 3,2% GDP.
Trong chỉ số Chuyển dịch năng lượng của Diễn đàn kinh tế thế giới năm 2021, Việt Nam được xếp hạng 61 trong tổng số 115 quốc gia về mức độ sẵn sàng chuyển dịch năng lượng, tăng 8 bậc và 3 điểm so với bảng xếp hạng năm 2020. Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trình bản cập nhật của Đóng góp quốc gia tự quyết định (NDC) lên UNFCCC vào năm 2020, cam kết giảm phát thải khí nhà kính. Các ngành năng lượng như ngành giao thông vận tải và ngành điện có xu hướng thay đổi nhiều nhất để tuân thủ cam kết của Việt Nam về giảm phát thải khí khí nhà kính. Ngành dầu khí, với vai trò là nhà cung cấp nhiên liệu đầu vào cho các ngành trên, cũng đang đối mặt với các cơ hội và khó khăn trong bối cảnh chuyển dịch năng lượng trên toàn cầu.
Luật Dầu khí mới chỉ đề cập đến các hoạt động ở khâu thượng nguồn của ngành dầu khí; nó không bao gồm các hoạt động ở trung tâm và hạ nguồn. Do đó, sẽ có hiện tượng xung đột và chồng chéo trong quá trình quản lý chuỗi giá trị dầu khí. Do đó, cần phải đưa vào Dự thảo các quy định liên quan đến hoạt động dầu khí ở khâu trung và hạ nguồn. Các ưu đãi thuế không phải là yếu tố quan trọng trong việc phá vỡ rào cản thu hút đầu tư. Việc lựa chọn đầu tư của một nhà đầu tư nước ngoài sẽ phụ thuộc vào việc cải thiện môi trường kinh doanh. Để giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng và tránh tình trạng tranh chấp kéo dài gây tổn hại cho ngân sách nhà nước, cần phải bổ sung và luật hóa các cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà nước Việt Nam và các nhà đầu tư quốc tế. Các quy định về điều tra, thăm dò và khai thác dầu khí phi truyền thống phải được xem xét và bổ sung. Các loại dầu khí phi truyền thống có phương pháp phân bố, hóa học và khai thác khác với dầu khí truyền thống, đòi hỏi phải có quy định và hướng dẫn cụ thể. Ngoài ra, Việt Nam cần phải tăng cường khai thác các mỏ khí đốt tiềm năng thay vì duy trì sản lượng hiện tại. Vì điện khí vẫn là một nhân tố quan trọng trong việc thay thế dần các nguồn nhiệt điện than và hỗ trợ quá trình chuyển đổi năng lượng tái tạo. Để bảo vệ lợi ích của mình trong tổng thể lợi ích chung, ngành, ngành dầu khí tích cực tham gia vào quá trình thiết kế toàn bộ thị trường năng lượng Việt Nam với tầm nhìn dài hạn.
Theo Báo Điện tử Đảng Cộng sản
Cập nhật tin tức công nghệ mới nhất tại fanpage Công nghệ & Cuộc sống