Pha lê xanh là gì?
Một khoáng chất phốt phát hiếm được gọi là pha lê xanh được tìm thấy mọc trên các vật liệu hữu cơ như vỏ hóa thạch, chất thải động vật và thậm chí cả xác chết bị phân.
Tinh thể pha lê xanh này nổi tiếng với cấu trúc đẹp mắt và có màu sắc sặc sỡ. Chúng thường xuất hiện trong trầm tích giàu sắt chứa xương, gỗ mục nát và các chất hữu cơ khác, đặc biệt là trong đất sét và đá sa thạch.
Ngoài ra, chúng có thể được phát hiện trong các trầm tích thay thế nhiệt dịch và trong các pegmatit granit giàu phốt phát, là đá lửa với kết cấu thô và các tinh thể lồng vào nhau.
Tinh thể này cực kỳ dễ vỡ và khi mới hình thành, nó thường có màu trắng nhạt hoặc trong suốt, nhưng khi tiếp xúc với ánh sáng, nó thực sự thay đổi về màu sắc. Điều này là do quá trình oxy hóa, quá trình này tiếp tục làm tối tinh thể thông qua các sắc thái xanh lam, xanh lục đậm hơn và tím, và cuối cùng là màu đen tía đậm.
Tại saoanite phát triển trên xác chết?
Sắt, nước và phốt phát tương tác với nhau để tạo thành loại pha lê xanh này. Khi cơ thể chúng ta bắt đầu phân, nhiều phốt phát, đặc biệt là trong răng và xương, được thải ra môi trường xung quanh. Phốt phát trong cơ thể phản ứng và tạo thành khoáng chất vivianite trong những trường hợp hiếm hoi, nơi khu vực xung quanh có chứa nước và sắt.
Phần lớn thời gian, vivianite đã được phát hiện trên các thi thể được chôn cất trong nhiều thế kỷ, nơi nó phát triển trên xương và răng. Có những ví dụ lâu đời hơn nhiều về việc nó đã được phát hiện trên ngà voi ma mút và xương của các loài động vật hàng nghìn năm tuổi khác, mặc dù có một số trường hợp nó đã được phát hiện gần đây hơn trên cơ thể con người.
Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy một số thi thể ở hồ Walchen, Đức, vào những năm 1960. Những thi thể này chỉ có khung xương và được bao phủ bởi sáp mỡ, hay còn gọi là Adipocere, một sản phẩm phụ của quá trình phân chất béo trong cơ thể thành một chất giống như xà phòng.
Giữa một tấm sắt và sáp mỡ, một trong hai thi thể có gắn một tấm. Theo một phân tích về quần áo của cơ thể, nó có thể đã ở trong nước từ 30 đến 50 năm và các tinh thể pha lễ của anh này có thể hình thành trong thời gian ngắn như vậy vì tấm sắt đã giải phóng đủ ion sắt II khi nó bị ăn mòn, cho phép vi-rút phát triển trên các bộ phận giàu phốt phát của cơ thể.
Sau khi máy bay B-26B của anh ta bị mất tích vào năm 1963, một nhóm các nhà nghiên cứu khác đã tìm thấy hài cốt của một Quân nhân Hoa Kỳ, người đã được liệt kê là mất tích khi tham gia chiến tranh từ năm đó, vào năm 1998.
Bằng cách phân tích khoáng chất, các nhà nghiên cứu có thể xác định rằng thi thể có khả năng bị chôn vùi trong đất ẩm dọc theo các bộ phận của máy bay, nơi có thể phát triển sótanite.
"Ötzi", người băng 5.300 tuổi được một du khách người Đức phát hiện ở Tirolean Ötztal Alps vào năm 1991, cũng đã được phát hiện ở nhiều vị trí khác trên cơ thể (bên trong, bên ngoài da và bên trong mô phổi). Người ta cho rằng tinh thể hình thành trên cơ thể tại những điểm mà nó tiếp xúc với đá chứa sắt.
Tương tự, vào năm 1996, một thi thể khác được phát hiện ở vịnh hồ Brienz của Sĩ và được cho là của một người đàn ông chết đuối ở đó vào khoảng những năm 1700.
Đối với các nhà khoa học đang cố gắng tìm hiểu về các bộ hài cốt, sự hình thành củanine vừa là tin tốt vừa là tin xấu. Sự hình thànhnine có thể giúp hiểu rõ hơn về thành phần của đất nơi chôn cất và cách thức mà xác chết được chôn cất.
Mặt khác, vì vi-rút có thể ngăn cản một phương pháp nghiên cứu phổ biến được gọi là chuỗi phản ứng polymerase (PCR), nên nó sẽ gây ra nhiều khó khăn cho quá trình phân tích DNA.
John Henry Vivian, một nhà khoáng vật học người Anh, người đầu tiên phát hiện ra khoáng chất này ở Cornwall, Anh, đã đặt tên cho nó làanite vào năm 1817.
Nguồn: Earthlymission; Nature; NASA
Cập nhật tin tức công nghệ mới nhất tại fanpage Công nghệ & Cuộc sống