Băn khoăn tỷ lệ 49% vốn ngoại vào fintech

 

Giới hạn tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại các công ty tài chính công nghệ (fintech) thanh toán là 49% như dự thảo vừa được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) công bố là phù hợp vào thời điểm hiện tại. Tuy nhiên, động thái giới hạn này có phần chậm trễ và tương đối muộn so với các quốc gia khác khi một số doanh nghiệp (DN) fintech thanh toán trong nước.

Nới “room” ngoại

NHNN vừa công bố Dự thảo lấy ý kiến thay thế Nghị định 101 về thanh toán không dùng tiền mặt, trong đó đề xuất tỷ lệ tối đa phần vốn góp của các nhà đầu tư nước ngoài tại các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, bao gồm cả sở hữu trực tiếp và gián tiếp, là 49%.

NHNN giải thích rằng quy định này nhằm bảo đảm an ninh, an toàn cho hoạt động, chủ quyền quốc gia trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, tạo thuận lợi thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhưng vẫn bảo đảm được vai trò chủ động của các DN trong nước, tránh thao túng của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này.

Việc tạo môi trường kinh doanh phục vụ vì lợi ích quốc gia và cộng đồng DN trong nước là điều cần thiết vì đây là loại hình hoạt động mới, dự báo thị trường đầy tiềm năng. Do đó, để DN trong nước nắm bắt được cơ hội, tính chủ động trong hoạt động kinh doanh của mình, cơ quan quản lý chuyên ngành phải tạo điều kiện.

NHNN cũng khẳng định rằng đề xuất dựa trên kinh nghiệm của Indonesia liên quan đến tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài không vượt quá 20% vốn sở hữu trong lĩnh vực thanh toán đối với các tổ chức chủ trì vận hành hệ thống, vận hành bù trừ, chuyển mạch, quyết toán cuối cùng.

Kết quả là, so với mức 30% như ý tưởng ban đầu, room ngoại của fintech đã được nới lỏng hơn. Tuy nhiên, liệu nó đã đủ để mãn các nhà đầu tư nước ngoài?

Theo ông Nghiêm Thanh Sơn, Phó Vụ trưởng Vụ Thanh toán, NHNN, toàn thị trường hiện có 30 DN fintech đang hoạt động trong lĩnh vực trung gian thanh toán, nhưng có tới 90% thị trường xét về cả giá trị và khối lượng giao dịch tập trung trong tay 5 DN. Tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp này dao động từ 30% đến 90%.

Do đó, quy định giới hạn tỷ lệ sở hữu đối với nhà đầu tư nước ngoài (49%) tại các trung gian thanh toán sẽ bảo đảm được vai trò chủ động của các DN trong nước, tránh thao túng của nhà đầu tư nước ngoài, bảo đảm an ninh, an toàn, chủ quyền quốc gia trong lĩnh vực tài chính ngân hàng.

Vẫn còn nhiều bất đồng về tỷ lệ sở hữu room ngoại của fintech

Nhiều ý kiến trái chiều

Tuy nhiên, dưới góc nhìn của các DN fintech và nhà đầu tư nước ngoài, thị trường fintech hiện rất cần vốn để phát triển, nếu giới hạn đầu tư nước ngoài sẽ rất khó để kêu gọi những nguồn vốn lớn hoặc các nhà đầu tư chuyên nghiệp.

Theo ông Seck Yee Chung, Chủ nhiệm Ủy ban Công nghệ thông tin và truyền thông thuộc Phòng Thương mại Mỹ (Amcham), việc giới hạn tỷ lệ sở hữu nước ngoài sẽ hạn chế nghiêm trọng khả năng phát triển của ngành fintech Việt Nam, đặc biệt khi các doanh nghiệp trong ngành cần phát triển dựa trên công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) và dữ liệu lớn (Big Data) từ các quốc gia đi trước. Do đó, họ kém cạnh tranh hơn so với các doanh nghiệp khác trong khu vực và hạn chế khả năng thu hút nhân tài.

Ngược lại, nhiều chuyên gia kinh tế đồng thuận với quan điểm của NHNN rằng cần phải siết chặt quản lý đối với fintech, đặc biệt là trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, vì đây là hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro, có tính lan truyền, ảnh hưởng đến an ninh tiền tệ quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và đạo đức xã hội.

Theo một chuyên gia, "sự xuất hiện của một số tổ chức nước ngoài với tiềm lực lớn có thể làm méo mó môi trường kinh doanh, ảnh hưởng đến khả năng phát triển của những fintech nội" nếu không giới hạn tỷ lệ sở hữu nước ngoài với fintech thanh toán.

Ông Nguyễn Bình, Chủ tịch Tập đoàn Nextech, khẳng định rằng việc đưa ra giới hạn tỷ lệ sở hữu nước ngoài là cần thiết dưới góc nhìn của DN. Tuy nhiên, so với các quốc gia khác, động thái này của cơ quan quản lý tương đối muộn và chậm.

Ông Bình nêu chi tiết: "Tại các thị trường lớn, họ đã dựng ra các rào cản kỹ thuật để đảm bảo tỷ lệ sở hữu của bản địa trong các lĩnh vực nhạy cảm như trung gian thanh toán. Ngân hàng Trung ương (PBOC) đã đưa ra các giới hạn này gần đây đã được thực hiện ở Trung Quốc và Indonesia cũng đã đưa ra tỷ lệ sở hữu giới hạn từ năm 2007 là dưới 20%.

Ông Bình lo ngại rằng sự chậm trễ này có thể dẫn đến sự không bình đẳng của các doanh nghiệp thuần Việt, thậm chí doanh nghiệp Mỹ bị đè bẹp ngay trên sân nhà bởi các doanh nghiệp nước ngoài thường có nguồn lực tài chính lớn mạnh.

Theo Tạp Chí Điện tử

Cập nhật tin tức công nghệ mới nhất tại fanpage Công nghệ & Cuộc sống