đề xuất sửa đổi và bổ sung Nghị định số 53/2018/NĐ-CP của Chính phủ

đề xuất sửa đổi và bổ sung Nghị định số 53/2018/NĐ-CP của Chính phủ

Sau 5 năm ban hành và triển khai, Nghị định số 53/2018/NĐ-CP ngày 16/4/2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 58/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định chi tiết về kinh doanh sản phẩm, dịch vụ mật mã dân sự và xuất khẩu, nhập khẩu sản phẩm mật mã dân sự đã cho thấy nhiều bất cập cần sửa đổi, bổ sung.

Đề xuất sửa đổi, bổ sung Nghị định số 53/2018/NĐ-CP của Chính phủ

Nhìn lại 5 năm thực hiện Nghị định số 53/2018/NĐ-CP (Nghị định số 53)

Theo đánh giá của Bộ Quốc phòng, Nghị định này đã đảm bảo được các yêu cầu từ lý luận đến thực tiễn, bao gồm: Bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính đồng bộ và thống nhất của hệ thống pháp luật, trong đó có các quy định về quản lý nhà nước trong lĩnh vực mật mã dân sự quy định tại Luật An toàn Thông tin mạng năm 2015, các quy định về xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa tại Luật Hải quan năm 2014 và các văn bản liên quan. Nghị định số 53 cũng đã sửa đổi những quy định không phù hợp, bổ sung và cập nhật những quy định về Hệ thống hài hoà mô tả và mã hóa hàng hóa (HS) mới được ban hành phù hợp với thực tiễn hoạt động kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu sản phẩm mật mã dân sự. Nghị định 53 cũng đảm bảo tính tương thích với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Nghị định số 53 ngày 16/4/2018 của Chính phủ nhằm sửa đổi, bổ sung và bổ sung Nghị định số 58/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ, quy định chi tiết về kinh doanh sản phẩm, dịch vụ mật mã dân sự và xuất khẩu, nhập khẩu sản phẩm mật mã dân sự đảm bảo hiệu lực thực hiện của Danh mục sản phẩm mật mã xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép, tuân thủ các yêu cầu đối với công tác quản lý hoạt động theo quy định tại Điều 34 Luật An toàn thông tin mạng; hỗ trợ công tác quản lý và thống kê hải quan về xuất nhập khẩu hàng hóa; đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, tạo điều kiện cho doanh nghiệp và cơ quan hải quan trong triển khai thực hiện.

Không có vấn đề bất cập nào được phát sinh trong quá trình triển khai thực hiện Nghị định số 53 của Chính phủ. Ban Cơ yếu Chính phủ đã cấp trên 1.400 giấy phép cho các doanh nghiệp xuất khẩu, nhập khẩu sản phẩm mật mã dân sự kể từ khi triển khai cho đến nay, căn cứ vào Danh mục sản phẩm mật mật mã dân sự xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép được ban hành tại Nghị định. Những giấy phép này giúp kiểm soát tốt các hoạt động kinh doanh sản phẩm mật mã công nghiệp trong nước, đáp ứng nhu cầu sử dụng sản phẩm mật mã để bảo vệ thông tin không thuộc phạm vi bí mật nhà nước.

Bối cảnh mới và những yêu cầu đặt ra

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 53/2018/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định số 58/2016/NĐ-CP vào ngày 16 tháng 4 năm 2018 và bổ sung Danh mục sản phẩm mật mã dân sự xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép có mã số HS phù hợp với Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu Việt Nam. Hai nghị định này (Nghị định số 58/2016 /NĐ-CP quy định chi tiết về kinh doanh sản phẩm, dịch vụ mật mã dân sự và xuất khẩu hàng hóa) được chi tiết trong hai nghị định này.

Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 29/NQ-CP ngày 8/3/2022 về phê duyệt Danh mục Biểu thuế hài ASEAN phiên bản 2022 (Danh mục ATHN), trong đó giao Bộ Tài chính thông báo Danh mục ATHN 2022 tới các Bộ, cơ quan liên quan và phối hợp với họ thực hiện Kế hoạch triển khai Danh mục ATHN 2022. Thực hiện Nghị quyết của Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 31/2022/TT-BTC ban hành Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu Việt Nam 2022 (thay thế Thông tư số 65/2017/TT-BTC ngày 27/6/2017 của Bộ trưởng Bộ Tài chính), có hiệu lực từ ngày 01/12/2022 (được điều chỉnh ngưng hiệu lực đến hết ngày 29/12/2022 tại Thông tư số 72/2022/TT- BTC ngày 30/11/2022 của Bộ trưởng Bộ tài chính).

Bộ Quốc phòng dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 53, trong đó chuyển đổi mã số HS tại Danh mục sản phẩm mật mã xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép thống nhất với Nghị quyết số 29/NQ-CP ngày 8/3/2022 của Chính phủ và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Do đó, cần phải ban hành Nghị định sửa đổi và bổ sung Nghị định 53 của Chính phủ.

đề xuất Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 53

Dự thảo sửa đổi, bổ sung Nghị định số 53, bao gồm 03 điều và 01 Phụ lục, được kết cấu như sau:

Điều 1: Quy định về nội dung sửa đổi, bổ sung Nghị định số 53/2018/NĐ-CP;

Điều 2: Quy định về hiệu lực thi hành, trong đó thiết lập thời điểm Nghị định có hiệu lực và quy định chuyển tiếp;

Điều 3: Quy định về trách nhiệm thi hành.

Danh mục sản phẩm mật mã dân sự xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép, trong đó mã số HS đã được chuẩn hóa và có một số điều chỉnh căn bản, là Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định.

Thứ nhất, loại bỏ 07 mã số HS: 8443.32.41; 8443.32.49; 8471.70.99, 8517.12.00; 8517.62.21; 8517. 62.29; 8517.70.

Thứ hai, bổ sung 05 mã số HS thay thế cho các mã số HS cũ: 8443.32.40 (hợp nhất hai mã số HS 8443.32.41 và 8443.32.49); 8471.70.90 (thay cho 8471.70.99); 8517.14.00 (thay cho 8517.12.00); 8517.62.43 (thay cho 85 17.62.21 và 8517.62.29); 8517.79 (thay cho 859.70).

Thứ ba, kết hợp bốn nhóm mã số HS dựa trên đặc tính của sản phẩm: 8525.81 (8525.81.10; 8525.81.20; 8525. 81.90); 8525.82: (8525.82.10; 85 25.82.20; 85 25.82,90); 8525.83: (8525.83.10); 8525.83.20: (8525.89.80; 8525.89.90; 8525.89: ( 8525.89.20; 8525.89.30; 85 25.89.90).

Các nội dung của Dự thảo Nghị định nhằm thực hiện Nghị định thư của các quốc gia ASIAN và Công ước HS mà Việt Nam là thành viên, phù hợp với "Danh mục hài thuế quan ASIAN AHTN phiên bản 2022", tuân thủ hoàn toàn "Danh mục HS phiên bản 2022" của tổ chức hải quan thế giới ở cấp độ 4 số và 6 số.

Một số ý kiến tiếp thu, giải trình

Điều kiện còn hiệu lực của Giấy phép quy định tại điều khoản chuyển tiếp tại khoản 2 Điều 2: "tên gọi" phù hợp với Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu của Việt Nam là điều kiện còn hiệu lực của giấy phép. Nếu Danh mục này là danh mục ban hành kèm theo Thông tư số 31/2022/TT-BTC ngày 8/6/2022 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, thì danh mục chỉ bao gồm mã hàng (code), mô tả hàng hóa (description) và đơn vị tính (unit of quantity) mà không có "tên gọi" của hàng hóa.

Sau khi xem xét ý kiến trên, Cơ quan soạn thảo đã rà soát và điều chỉnh khoản 2 Điều 2 của dự thảo Nghị định như sau: "Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu sản phẩm mật mã dân sự đã được cấp cho doanh nghiệp trước ngày Nghị định này có hiệu lực thì tiếp tục có giá trị thực hiện thủ tục hải quan theo thời hạn ghi trên Giấy phép nếu tên gọi của sản phẩm phù hợp với mô tả hàng hóa tại Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu Việt Nam. Cơ quan Hải quan căn cứ vào Danh mục hàng hóa xuất nhập khẩu, nhập khẩu tại Việt Nam, Giấy phép xuất khẩu, nhập nhập khẩu sản phẩm mã số HS đã được cấp, nhập khẩu để xác định mã số HS và giải quyết thủ tục thông quan cho doanh nghiệp theo quy định."

Thứ hai, cần làm rõ thêm trường hợp hàng hóa không đáp ứng điều kiện về "tên gọi" nhưng bản chất hàng hóa và mã hàng hóa được liệt kê trong Danh mục sản phẩm ban hành kèm theo Nghị định này thì Giấy phép đã được cấp trước đây còn hiệu lực thi hành hay không.

Cơ quan soạn thảo giải trình như sau: Căn cứ khoản 1 Điều 2 Nghị định số 53 về áp dụng Danh mục sản phẩm mật mã dân sự xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép Chỉ áp dụng cho các sản phẩm mật mã dân dụng mà cả mã số HS, tên gọi và mô tả chức năng mật mã trùng với mã số HS, tên và mô tả chức năng mã của hàng hóa thuộc Danh mục. Do đó, nếu hàng hóa không đáp ứng điều kiện về "tên gọi" nhưng bản chất hàng hóa và mã số HS nằm trong Danh mục sản phẩm ban hành kèm theo Nghị định này, thì Giấy phép đã được cấp trước đây vẫn còn hiệu lực thi hành, căn cứ vào mã số HS và mô tả chức năng của mã số HS tại Danh mục sản phẩm mật mật mã dân sự xuất nhập khẩu, và nhập khẩu theo giấy phép đã được cấp.

Thứ ba, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan, rà soát kỹ để đảm bảo nội dung dự thảo Nghị định tuân thủ các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, trong đó lưu ý cam kết về hàng hóa chứa công nghệ mã hóa tại Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).

Theo cơ quan tham gia ý kiến, không nên coi việc sửa đổi Danh mục sản phẩm mật mã dân sự xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép trong dự thảo Nghị định là một biện pháp cấm hoặc hạn chế xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, trong trường hợp các quốc gia CPTPP đưa ra yêu cầu làm rõ hoặc cung cấp thông tin, chúng tôi cũng phải chuẩn bị sẵn lập luận để giải thích. Sau khi xem xét và xem xét ý kiến, cơ quan soạn thảo đã kết luận rằng Danh mục sản phẩm mật mật mã dân sự xuất nhập khẩu, nhập nhập khẩu theo giấy phép và các quy định hiện hành có liên quan tuân thủ các quy định về quản lý sản phẩm mật mã dân được nêu trong Luật An toàn thông tin mạng để điều chỉnh việc kinh doanh, sử dụng sản phẩm mật mã dân dân sự trong nước để đảm bảo an toàn, an ninh thông tin; không áp dụng hoặc duy trì biện pháp cấm xuất nhập khẩu từ Việt Nam sang quốc gia khác và ngược lại. Do đó, dự thảo Nghị định tuân thủ các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và không vi phạm cam kết về hàng hóa chứa công nghệ mã hóa của CPTPP.

Thứ tư, cần làm rõ về sự phù hợp của luật pháp Việt Nam và cam kết quốc tế của Việt Nam đối với nội dung bổ sung mã số HS mới, đồng thời, có các đánh giá tác động về vấn đề này.

Sau khi xem xét ý kiến trên, Cơ quan soạn thảo đã rà soát và phát hiện ra rằng tại Danh mục dự kiến được thay thế, có bổ sung 04 nhóm mã số HS (mã 8525.81 8525.82, 8525.83, 8525.89) để áp dụng cho các sản phẩm mật mã dân sự hiện đang được kinh doanh, xuất nhập khẩu tại Việt Nam nhưng chưa có trong Danh mục sản phẩm mật mã xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép ban hành tại Nghị định số 53. Việc bổ sung mã sản phẩm trên nhằm đảm bảo tuân thủ các quy định quản lý nhà nước về mật mã dân sự theo Luật An toàn thông tin mạng, phù hợp với luật pháp Việt Nam và cam kết quốc tế của Việt Nam trong hoạt động thương mại quốc tế và không làm phát sinh các thủ tục hành chính mới.

Phần lớn các mã HS được đề cập trong Dự thảo về cơ bản không khác nhiều so với Danh mục sản phẩm mật mã dân sự xuất nhập khẩu, nhập khẩu theo giấy phép được ban hành kèm theo Nghị định số 53, mà chủ yếu là chuẩn hóa mã HS và một số từ ngữ tên gọi, mô tả sản phẩm cho phù hợp với Danh mục hàng hóa xuất nhập khẩu Việt Nam mới được ban hành. Do đó, việc thông qua Nghị định không làm thay đổi các quyền và lợi ích của doanh nghiệp trong việc xuất nhập khẩu sản phẩm mã dân sự.

Dự thảo Nghị định, với các đề xuất sửa đổi, bổ sung, không làm phát sinh chi phí tổ chức hoặc bộ máy khi triển khai thực hiện Nghị định. Cơ quan có thẩm quyền giải quyết các thủ tục hành chính trong lĩnh vực mật mã dân sự (Ban Cơ yếu Chính phủ) có trách nhiệm bảo đảm đầy đủ các điều kiện về con người, cơ sở vật chất để thực hiện việc cung cấp dịch vụ công mức độ 4 nhằm tạo điều kiện thuận lợi, tiết kiệm chi phí cho người dân và doanh nghiệp khi thực hiện các thủ tục hành chính về xuất khẩu, nhập khẩu sản phẩm mật mã dân sự, phối hợp với cơ quan hải quan để giải quyết các vướng mắc phát sinh, bảo đảm mục tiêu quản lý nhà nước trong lĩnh vực mật mật mã dân sự...

Cập nhật tin tức công nghệ mới nhất tại fanpage Công nghệ & Cuộc sống

Nguồn tin:

 

Tham gia bình luận