Người "giữ hồn" bánh đúc mật xứ Huế

Người "giữ hồn" bánh đúc mật xứ Huế

Mệ (bà) Trần Thị Gái (SN 1942, ngụ tại TP. Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế) là người hiếm hoi còn lưu giữ món bánh được bày bán trên đôi quang gánh. Bánh đúc mật là thức quà quê hương bình dị được liên kết với tuổi của biết bao thế hệ người con xứ Huế.

Vào một buổi sáng tháng 4 tiết trời dễ chịu, đi theo con đường của làng Lang Xá Cồn đến thành phố Huế, không khó để bắt gặp bóng dáng một bà cụ nhỏ nhắn trên vai với đôi quang gánh len lỏi ngược xuôi chở một miền ký ức về món bánh đầy kỷ niệm của người dân cố đô.

Người "giữ hồn" bánh đúc mật xứ Huế

Cứ sau 6-7 giờ sáng, mệ Gái lại bắt đầu gánh bánh đúc mật đi bán từ nhà ở làng Lang Xá Cồn đến đoạn đường Hoàng Quốc Việt qua Trường Chinh và dừng lại hẳn trên lề đường Bà Triệu (TP. Huế).

Như một thói quen, mệ đặt đôi quang gánh xuống và bắt đầu bày đồ ra bán cho những vị khách quen hoặc những người qua lại đang tìm mua bánh đúc mật được gói trong lá chuối dân dã kèm với hũ mật đường ngọt.

Có thể nói cả cuộc đời của mệ Gái dành gần nửa thời gian mệ dành cho bánh đúc mật. Cô bé 11 tuổi lẽo đẽo bám sau lưng mẹ đi bán bánh từ khi còn là một thiếu nữ cho đến khi bước vào độ tuổi xế chiều, khi đôi tay mệ nhuộm màu xanh của những chiếc lá bồng bồng.

Chỉ biết theo lời người già kể lại, bánh đúc mật được một người phụ nữ sống một mình ở thôn Ngọc Anh, Lại Thế (tỉnh Thừa Thiên) trồng cây bồng bồng, sau đó làm lấy đó làm bánh đúc, kể từ đó người dân trong làng cũng học làm bánh này để sinh nhai. Mệ Gái không biết món bánh này xuất hiện từ lúc nào.

Mệ Gái kể rằng trong thời bà và mẹ của mình, món bánh này được bán rất nhiều nhưng cuối cùng con cháu không ai nối nghề. Bây giờ chỉ còn mỗi mệ là thương cái nghề sinh ra từ làng mà hàng năm vào mùa lại đốt nóng nhóm lửa để nấu bánh.

"Thương nghề ni quá mệ mới làm, chứ mệ mà không làm là mất hết rồi, không có nữa mô." Mệ Gái nói bằng chất giọng Huế đáng yêu nghe sao bịn rịn, khiến người thưởng thức bánh như tưởng tượng được về những ngày tháng mà những người phụ nữ chịu thương chịu khó khăn phải gánh hàng rong nhịp nhàng qua mọi nẻo đường.

Gạo ruộng, mặc dù khô khan nhưng lại là "công thức" để làm phần lớn các loại bánh từ gạo của Huế, phải được chà xát với nước cho sạch để khi đổ bánh không bị chua. Sau đó, xay gạo nhiều lần cho đến khi gạo thật nhuyễn mịn trước khi lược qua rây.

Mệ Gái giã lá bồng bồng với lá dứa và vắt lấy nước cốt để bánh đúc mật có được màu xanh mướt, thơm ngon. Mệ vẫn giữ thói quen giã lá bằng chày và cối, công đoạn này cần nhiều sức lực bởi vừa giã vừa phải trở lá liên tục, không được nghỉ giữa chừng. Nếu dừng lại lá sẽ bị ôi, khi vắt lấy nước màu sẽ bị đục, không tươi.

Bột gạo nên được trộn với nước cốt của lá sau khi nó đã được vắt khô. Bột nên được đưa lên bếp lửa để ráo bột. Khi bột gạo đạt đến độ đặc sệt mong muốn, hãy đổ bột ra khay lót có lót lá chuối. Mệ Gái dùng đôi đũa dài dẹt gạt cho bề mặt bột phẳng lì. Sau đó, hấp lại một lần nữa, sau đó để nguội bánh từ từ cho đến khi bánh chuyển sang màu xanh tươi.

Bánh đúc phải được ăn kèm với mật đường để tròn vị. Mệ Gái vẫn nấu mật mía được mua từ làng Văn Xá cách đây mười mấy năm. Hiện tại, người làng không còn sản xuất mật mía nữa, vì vậy mệ phải sử dụng đường cát trắng để nấu mật.

Khi cuộc sống của lớp trẻ trở nên hiện đại hơn, gánh bánh đúc mật của mệ Gái vẫn tồn tại bởi sức hút kỳ diệu từ những miếng bánh đúc xanh tươi ngon đến độ nhìn thôi cũng như được tưới mát tâm hồn.

Mệ Gái không bao giờ giấu nghề mà chỉ truyền lại nhiệt tình cho bất kỳ ai muốn học. Mục tiêu chính của mệ là muốn món bánh này được truyền lại và những người thưởng thức nó sẽ có thể thưởng thức "nét tinh túy" của một món bánh đặc sản xứ Huế trong tương lai.

Bánh đúc mật "ăn lấy lộc" đầu năm

Bà con đã có quan niệm ăn một miếng bánh đúc mật để "ăn lộc" từ thời cổ đại vì bánh có màu xanh tươi và chấm với mật đường ngọt ngào. Từ độ mùa xuân đầu năm mới cho đến khoảng tháng 5, bánh đúc mật được rao bán.

Bánh được người Huế tôn kính mua để cúng vào các dịp đặc biệt như ngày Rằm, cúng ông Táo, Trang Bà Trang Ông, Giao thừa, cúng đất, hay Tết Đoan Ngọ. Bánh không chỉ được sử dụng để ăn chơi.

Bởi vì nó chỉ được bán trong vài tháng thay vì được bán quanh năm như những món ăn khác, nên món bánh này thậm chí còn trở nên đặc biệt hơn. Theo lời giải thích của mệ Trần Thị Gái, để tạo màu xanh tươi cho bánh đúc, từ xa xưa ông bà chỉ sử dụng những ngọn lá non của cây bồng bồng (bồn bồn), một loại cây trồng phổ biến ở vùng quê Thừa Thiên Huế bao gồm các cộng đồng Chuồn, Lại Thế và Diên Đại.

Khi mùa xuân đến, những cây bồng bồng bắt đầu đâm chồi nảy lộc, tạo ra nhiều lá non xanh um của cả một vùng quê. Những người phụ nữ chân quê mặc áo dài nâu, dáng người nhỏ bé trên vai là đôi quang gánh đi bán bánh đúc mật bắt đầu nhìn thấy bóng dáng những người phụ nữ chân quê này. Lá không còn non vào thời điểm đó, vì vậy người ta cũng thôi làm, và bán bánh đúc mật. Ai lỡ dịp phải đợi nửa năm sau mới có để thưởng thức.

Cập nhật tin tức công nghệ mới nhất tại fanpage Công nghệ & Cuộc sống

Nguồn tin:

 

Tham gia bình luận