![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Ảnh minh họa |
Dự thảo nghị định "Quy định quản lý đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước" do Bộ Khoa học và Công nghệ soạn thảo đang đặt ra những yêu cầu quản lý chặt chẽ hơn đáng kể so với hiện tại. Văn bản dự kiến thay thế hoàn toàn Nghị định 73/2019 và Nghị định 82/2024, thiết lập khung pháp lý toàn diện cho việc sử dụng ngân sách nhà nước trong lĩnh vực công nghệ thông tin.
Theo dự thảo nghị định, phạm vi điều chỉnh bao gồm cả dự án đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng vốn ngân sách nhà nước chi cho đầu tư công lẫn các hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng kinh phí chi thường xuyên. Đặc biệt, văn bản áp dụng cho cả trường hợp dự án sử dụng hỗn hợp nhiều nguồn vốn khác nhau, miễn là nguồn vốn ngân sách nhà nước chiếm tỷ lệ từ 30% trở lên hoặc lớn nhất trong tổng mức đầu tư.
Quy trình thẩm định và thiết kế dự án được chuẩn hóa nghiêm ngặt
Điểm nổi bật trong dự thảo nghị định là việc thiết lập quy trình thẩm định nghiêm ngặt hơn cho các dự án đầu tư công. Theo quy định mới, dự án được chia làm hai loại thiết kế chính dựa trên tổng mức đầu tư và độ phức tạp của hạng mục công việc.
Dự án thiết kế một bước áp dụng cho các dự án không có hạng mục phần mềm nội bộ và có tổng mức đầu tư không quá 20 tỷ đồng. Loại dự án này chỉ cần thực hiện bước thiết kế chi tiết tại giai đoạn chuẩn bị đầu tư.
Dự án thiết kế hai bước áp dụng cho các dự án phức tạp hơn, bao gồm bước thiết kế cơ sở tại giai đoạn chuẩn bị đầu tư và bước thiết kế chi tiết tại giai đoạn thực hiện đầu tư.
Thiết kế cơ sở phải tuân thủ Khung Kiến trúc tổng thể quốc gia số, các quy chuẩn kỹ thuật được áp dụng và quy định về quản lý, kết nối, chia sẻ dữ liệu trong cơ quan nhà nước. Nội dung bao gồm phần thuyết minh mô tả yêu cầu dự án, danh mục quy chuẩn kỹ thuật, thuyết minh mô hình tổng thể, mô hình logic, mô hình vật lý của hệ thống.
Thiết kế chi tiết phải phù hợp với thiết kế cơ sở đã được duyệt, thể hiện chi tiết các thông số kỹ thuật, chức năng, tính năng. Đối với xây lắp mạng và lắp đặt thiết bị, thiết kế chi tiết phải có các chỉ tiêu kỹ thuật áp dụng trong triển khai, danh mục thiết bị và thông số kỹ thuật, thống kê khối lượng công tác xây lắp.
Văn bản quy định chi tiết về nội dung báo cáo nghiên cứu khả thi dự án, yêu cầu phải thuyết minh rõ về sự tuân thủ Khung Kiến trúc tổng thể quốc gia số và các khung kiến trúc chuyên ngành. Mục tiêu dự án phải được xác định cụ thể và có thể đo lường được, trong khi hiệu quả đầu tư về kinh tế xã hội cần thể hiện thông qua các chỉ tiêu cụ thể, định lượng.
Thời gian thẩm định dự án được quy định rõ ràng nhằm tránh tình trạng kéo dài: không quá 20 ngày với dự án nhóm A và không quá 12 ngày với dự án nhóm B, C, kể từ ngày cơ quan thẩm định nhận đủ hồ sơ hợp lệ. Thời gian quyết định đầu tư cũng được rút ngắn: không quá 5 ngày đối với dự án nhóm A, không quá 3 ngày đối với dự án nhóm B, C.
Dự thảo nghị định cũng đưa ra yêu cầu bắt buộc về kiểm thử hoặc vận hành thử trước khi nghiệm thu. Sản phẩm hoặc hạng mục công việc của dự án phải được kiểm thử hoặc vận hành thử tại ít nhất một đơn vị thụ hưởng trước khi tiến hành nghiệm thu chính thức. Chủ đầu tư có thể lựa chọn tự kiểm thử hoặc thuê tổ chức có năng lực độc lập thực hiện. Kết quả kiểm thử phải được lập thành văn bản và là căn cứ quan trọng cho các bên tham gia nghiệm thu.
Nghiệm thu và bàn giao sản phẩm dự án cũng có quy định cụ thể. Sản phẩm chỉ được bàn giao sau khi nghiệm thu đạt yêu cầu chất lượng. Nhà thầu phải bàn giao kèm theo hồ sơ hoàn thành, tài liệu hướng dẫn sử dụng, quản trị, vận hành, bảo trì và tài liệu kỹ thuật phục vụ kết nối. Đối với phần mềm nội bộ, nhà thầu còn phải bàn giao mã nguồn chương trình và tài liệu đào tạo người sử dụng. Mức tiền bảo hành tối thiểu được tính theo tỷ lệ phần trăm giá trị sản phẩm: 3% đối với sản phẩm có thời hạn bảo hành 24 tháng và 5% đối với sản phẩm có thời hạn bảo hành 12 tháng. Nhà thầu có trách nhiệm nộp thư bảo lãnh của ngân hàng có giá trị tương đương cho chủ đầu tư hoặc các hình thức bảo lãnh khác được chấp nhận.
Về các hình thức quản lý dự án, dự thảo nghị định quy định cấp có thẩm quyền quyết định đầu tư có thể lựa chọn trực tiếp quản lý dự án khi chủ đầu tư có đủ điều kiện, năng lực hoặc thuê tổ chức tư vấn quản lý dự án. Chủ đầu tư thành lập Ban quản lý dự án trong trường hợp trực tiếp quản lý dự án để giúp chủ đầu tư làm đầu mối quản lý. Đối với dự án có tổng mức đầu tư từ 20 tỷ đồng trở xuống, chủ đầu tư có thể sử dụng bộ máy chuyên môn của mình. Chi phí trang thiết bị bao gồm chi phí mua sắm trang thiết bị công nghệ thông tin, chi phí tạo lập cơ sở dữ liệu, chi phí lắp đặt thiết bị, cài đặt phần mềm, chi phí đào tạo hướng dẫn sử dụng và chi phí triển khai, hỗ trợ trước khi nghiệm thu bàn giao.
Phân định rõ ràng hoạt động sử dụng kinh phí thường xuyên
Một trong những điểm quan trọng nhất của dự thảo nghị định là việc phân định rõ ràng các hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng kinh phí chi thường xuyên nguồn vốn ngân sách nhà nước. Văn bản liệt kê cụ thể các hoạt động này, giúp các cơ quan, đơn vị xác định chính xác loại hình hoạt động và áp dụng quy trình quản lý phù hợp.
Các hoạt động được phép sử dụng kinh phí chi thường xuyên bao gồm mua dự phòng, thay thế thiết bị phần cứng thuộc hệ thống thông tin hiện có và mua phần mềm thương mại, bao gồm cả cập nhật bản quyền. Gia hạn bảo hành, bảo trì, sửa chữa hệ thống thông tin, phần cứng, phần mềm cũng thuộc nhóm hoạt động này, bao gồm quản trị, vận hành, thuê quản trị, hỗ trợ kỹ thuật hệ thống thông tin, dịch vụ an toàn thông tin mạng và dịch vụ an ninh mạng.
Tạo lập cơ sở dữ liệu, chuẩn hóa, chuyển đổi phục vụ cho nhập dữ liệu, tạo lập cơ sở dữ liệu và thực hiện nhập dữ liệu cho cơ sở dữ liệu cũng được liệt kê trong nhóm hoạt động sử dụng kinh phí thường xuyên. Bên cạnh đó là duy trì hệ thống cơ sở dữ liệu và bảo đảm hoạt động thường xuyên cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên môi trường mạng.
Đối với thuê dịch vụ công nghệ thông tin, dự thảo quy định thời gian thuê không dưới một năm, trường hợp dưới một năm phải được sự đồng ý của cấp có thẩm quyền phê duyệt nhiệm vụ. Đơn vị sử dụng ngân sách thuê dịch vụ chịu trách nhiệm xác định yêu cầu chất lượng dịch vụ làm cơ sở tổ chức lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ và nghiệm thu chất lượng dịch vụ.
Các hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin để khắc phục ngay hoặc xử lý kịp thời hậu quả gây ra do sự cố thiên tai, hỏa hoạn hoặc thực thi nhiệm vụ giải quyết sự cố theo yêu cầu của Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cũng được phép sử dụng kinh phí chi thường xuyên. Quy định này đảm bảo tính linh hoạt trong việc ứng phó với các tình huống khẩn cấp.
Đặc biệt quan trọng, dự thảo nghị định quy định riêng về các hoạt động nâng cấp, mở rộng hệ thống thông tin, phần cứng, phần mềm, cơ sở dữ liệu cần thực hiện để đáp ứng các yêu cầu thay đổi về quy trình nghiệp vụ, thủ tục hành chính, dịch vụ công trực tuyến theo quy định của văn bản quy phạm pháp luật. Những hoạt động này được phép sử dụng kinh phí thường xuyên sau khi được phân bổ dự toán, không cần lập thành dự án riêng.
Ngược lại, các hoạt động đầu tư xây dựng mới, phát triển hệ thống thông tin, hệ thống phần cứng, hệ thống phần mềm, cơ sở dữ liệu và hoạt động nâng cấp, mở rộng không thuộc các trường hợp được liệt kê phải thực hiện theo hình thức dự án đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng kinh phí chi thường xuyên nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Dự án đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng kinh phí chi thường xuyên có quy trình quản lý tương tự như dự án sử dụng vốn đầu tư công, nhưng được điều chỉnh phù hợp với đặc thù của nguồn kinh phí. Trình tự lập, thẩm định, quyết định đầu tư bao gồm việc chủ đầu tư tự thực hiện hoặc thuê tổ chức khảo sát và lập báo cáo nghiên cứu khả thi, trình cấp có thẩm quyền quyết định đầu tư.
Cấp có thẩm quyền quyết định đầu tư thành lập Hội đồng thẩm định hoặc giao cho cơ quan chuyên môn tổ chức thẩm định dự án. Căn cứ ý kiến thẩm định, chủ đầu tư hoàn chỉnh báo cáo nghiên cứu khả thi để trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định đầu tư dự án. Việc điều chỉnh dự án được thực hiện khi có các điều kiện quy định như điều chỉnh nhiệm vụ, điều chỉnh quy hoạch ảnh hưởng trực tiếp, do nguyên nhân bất khả kháng hoặc xuất hiện yếu tố mang lại hiệu quả cao hơn.
Cơ chế giám sát trực tuyến và đánh giá hiệu quả toàn diện
Dự thảo nghị định thiết lập một hệ thống giám sát và đánh giá hiệu quả toàn diện thông qua cơ chế cung cấp thông tin trực tuyến. Cơ chế này được thiết kế để tạo ra luồng thông tin minh bạch, kịp thời từ cấp thực hiện dự án lên cấp quản lý nhà nước.
Về cung cấp thông tin hoàn thành dự án, trong vòng 10 ngày kể từ ngày nghiệm thu bàn giao, đưa sản phẩm hoặc hạng mục công việc của dự án vào khai thác, sử dụng đạt yêu cầu và được các bên tham gia nghiệm thu chấp thuận, ký kết biên bản nghiệm thu, chủ đầu tư có trách nhiệm cung cấp thông tin hoàn thành dự án cho cấp có thẩm quyền quyết định đầu tư và đơn vị chuyên môn về công nghệ thông tin thuộc Bộ, cơ quan trung ương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Tiếp theo, trong vòng 30 ngày kể từ khi nhận được thông tin hoàn thành dự án, đơn vị chuyên môn về công nghệ thông tin thuộc Bộ, cơ quan trung ương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm cung cấp thông tin của từng dự án trong phạm vi quản lý cho Bộ Khoa học và Công nghệ.
Cơ chế đánh giá hiệu quả được thiết kế với tính định kỳ. Định kỳ tháng 1 hàng năm, cơ quan, tổ chức được giao quản lý, khai thác, vận hành dự án hoặc chủ trì thuê dịch vụ công nghệ thông tin có trách nhiệm cung cấp thông tin đánh giá việc hoàn thành mục tiêu và hiệu quả kinh tế xã hội của dự án cho đơn vị chuyên môn về công nghệ thông tin thuộc cơ quan quản lý.
Tương tự như quy trình báo cáo hoàn thành dự án, trong vòng 30 ngày kể từ khi nhận được thông tin đánh giá hiệu quả, đơn vị chuyên môn về công nghệ thông tin thuộc Bộ, cơ quan trung ương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm cung cấp thông tin đánh giá hiệu quả của từng dự án, nhiệm vụ trong phạm vi quản lý cho Bộ Khoa học và Công nghệ.
Việc cung cấp thông tin được thực hiện hoàn toàn trực tuyến thông qua hệ thống thông tin do Bộ Khoa học và Công nghệ xây dựng, duy trì, vận hành, quản lý. Điều này không chỉ giúp tiết kiệm thời gian, chi phí mà còn tạo ra cơ sở dữ liệu tập trung, thuận tiện cho công tác theo dõi, giám sát và phân tích xu hướng đầu tư trên toàn quốc.
Công tác kiểm tra hoạt động đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin được ưu tiên thực hiện trên môi trường điện tử theo quy định về giao dịch điện tử. Bộ Khoa học và Công nghệ có trách nhiệm tổ chức kiểm tra hoạt động đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin của các bộ, ngành, địa phương, trong khi các bộ, cơ quan trung ương, địa phương, người có thẩm quyền quyết định đầu tư tổ chức kiểm tra trong phạm vi quản lý của mình.
Nội dung kiểm tra được quy định rõ ràng, bao gồm tình hình tuân thủ, thực hiện quy định của pháp luật về đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước, không bao gồm lĩnh vực về đấu thầu và lập, thẩm định, phân bổ, bố trí vốn. Nội dung kiểm tra còn bao gồm việc lập, thẩm định, phê duyệt, tổ chức quản lý thực hiện dự án, nhiệm vụ ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước và hiệu quả đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Trong giai đoạn phê duyệt dự án, nhiệm vụ, nội dung về hiệu quả đầu tư phải được thuyết minh trong báo cáo nghiên cứu khả thi dự án. Trong giai đoạn thực hiện, chủ đầu tư, đơn vị mua sắm, thuê dịch vụ công nghệ thông tin phải tổ chức theo dõi, giám sát quá trình nhà thầu triển khai để bảo đảm thực hiện đúng hợp đồng đã ký kết. Quan trọng nhất, trong quá trình vận hành, khai thác các sản phẩm sau đầu tư, đơn vị được giao quản lý, sử dụng có trách nhiệm vận hành, duy trì, bảo trì, nâng cấp, mở rộng bảo đảm kết quả dự án đạt hiệu quả khai thác thường xuyên, liên tục, ổn định.
Các quy định về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân được phân định rõ ràng. Bộ Khoa học và Công nghệ có trách nhiệm ban hành và hướng dẫn các văn bản quy phạm pháp luật, theo dõi, kiểm tra hoạt động đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng, vận hành, duy trì nền tảng quản lý và bồi dưỡng, tập huấn nâng cao năng lực cho các đối tượng liên quan.
Bộ Tài chính có trách nhiệm hướng dẫn, tổng hợp, bố trí việc cân đối, bố trí vốn ngân sách nhà nước và ban hành quy định về bố trí vốn, thanh toán, quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước.
Những quy định nghiêm ngặt này thể hiện xu hướng tăng cường quản lý nhà nước trong lĩnh vực đầu tư công nghệ thông tin, nhằm đảm bảo tính hiệu quả và minh bạch của việc sử dụng ngân sách nhà nước. Việc thiết lập hệ thống giám sát trực tuyến và yêu cầu báo cáo định kỳ sẽ giúp cơ quan quản lý nắm bắt tình hình thực hiện dự án một cách kịp thời và chính xác hơn.
Nhìn về tương lai, những quy định này có thể tạo ra áp lực lớn cho các cơ quan, đơn vị trong việc thực hiện các dự án công nghệ thông tin, nhưng đồng thời cũng sẽ góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả đầu tư. Việc yêu cầu kiểm thử bắt buộc và có hệ thống giám sát chặt chẽ có thể giúp giảm thiểu các dự án thất bại hoặc không đạt hiệu quả như mong đợi, từ đó tối ưu hóa việc sử dụng ngân sách nhà nước trong tiến trình chuyển đổi số quốc gia.
Toàn văn Dự thảo Nghị định quy định quản lý đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước
Theo tạp chí Điện tử và Ứng dụng
Cập nhật tin tức công nghệ mới nhất tại fanpage Công nghệ & Cuộc sống
Nguồn tin: dientungaynay.vn
Tham gia bình luận