Thách thức và giải pháp của Petrovietnam trong chuyển dịch năng lượng

Thách thức và giải pháp của Petrovietnam trong chuyển dịch năng lượng

Các thành viên của Ban Tổng Giám đốc, Ban Chỉ đạo và Tổ giúp việc của CDNL Tập đoàn, đại diện cho các Ban chuyên môn và các đơn vị thành viên của Tập đoàn cũng có mặt cùng dự buổi họp.

Báo cáo cập nhật của Ban Điện và Năng lượng tái tạo Tập đoàn về tình hình năng lượng và CDNL trên thế giới và Việt Nam cho thấy, CDNL vẫn diễn ra mạnh mẽ và là xu hướng toàn cầu. Để tránh các hậu quả của biến đổi khí hậu, mỗi quốc gia sẽ cân đối 3 yếu tố (an ninh năng lượng, môi trường, phát triển và tăng trưởng kinh tế) để chọn chiến lược và lộ trình riêng.

Thách thức và giải pháp của Petrovietnam trong chuyển dịch năng lượng
Tổng Giám đốc Petrovietnam Lê Mạnh Hùng chủ trì buổi họp

Các nguồn năng lượng tái tạo, sử dụng hiệu quả năng lượng/các phương tiện giao thông điện đang dẫn đầu trong đầu tư các loại năng lượng sạch cho xu hướng CDNL trên thế giới. Cuộc khủng hoảng năng lượng do xung đột giữa Nga và Ukraine đang thúc đẩy đầu tư mới vào nhiên liệu, bao gồm cả việc mở rộng nguồn cung than ở các nền kinh tế châu Á mới nổi, nổi bật trong thời gian qua.

Công tác CDNL của các tập đoàn dầu khí trên thế giới cũng đã trải qua những thay đổi về chiến lược đầu tư, trong đó thu hẹp hoạt động đầu tư dầu khí và tăng đầu tư vào công nghệ sạch, nhưng chỉ đạt 5% (so với tổng đầu tư) vào năm 2022. Trong đó, đầu tư lớn nhất vào ngành công nghiệp điện gió ngoài khơi đang tăng nhanh, tỷ trọng thu hồi và lưu trữ carbon cũng đang tăng lên. Trái ngược với xu hướng, các quốc gia ở Trung Đông lại có kế hoạch đầu tư nhiều hơn vào các hoạt động dầu khí so với năm 2019. Các công ty châu Âu dẫn đầu về công nghệ sạch.

Tính đến tháng 6/2022, đã có khoảng 40 quốc gia đưa ra các chiến lược và lộ trình hydrogen, trong đó Trung Quốc, Mỹ, Ấn Độ, Nga và Nhật là những quốc gia hàng đầu về phát thải nhà kính. Hiện nay, 98% hydrogen trên thế giới được sản xuất từ khí đốt và than, được sử dụng để lọc dầu và hóa chất. Tuy nhiên, việc mở rộng ứng dụng hydro trong giao thông và công nghiệp nặng sẽ giúp mở đường cho chuỗi sản xuất hydrogen. Các công ty dầu khí đã và đang đẩy mạnh đầu tư phát triển các dự án xanh hydrogen (bao gồm chuỗi từ sản xuất, mạng lưới tiếp nhiên liệu và lưu trữ hydro) để khử cacbon trong danh mục kinh doanh.

Thách thức và giải pháp của Petrovietnam trong chuyển dịch năng lượng
Toàn cảnh buổi họp

Do sự sẵn có của mạng lưới đường ống CO2 và nhu cầu CO2 cho EOR, cũng như các chương trình tài trợ công của Chính phủ, việc triển khai thu giữ carbon cho đến nay tập trung ở Hoa Kỳ (gần một nửa số cơ sở hoạt động). Các cơ sở thu giữ, sử dụng tuần hoàn và lưu trữ khí thải CO2 (CCUS) đã được đưa vào hoạt động ở Úc, Brazil, Canada, Trung Quốc, Ả Rập Xê Út và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất trong mười năm qua...

Kế hoạch cho khoảng 130 dự án thu giữ CO2 quy mô thương mại sẽ được công bố vào năm 2021. Các kế hoạch này nhằm thu hồi CO2 từ các hoạt động sản xuất (một nửa trong số đó là từ sản xuất hydrogen và nhiên liệu sinh học).

Tại Hội nghị thượng đỉnh về biến đổi khí hậu của Liên Hợp Quốc năm 2021 (COP26), Việt Nam đã thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia quốc gia triển khai thực hiện cam kết của mình. Việt Nam đang quyết liệt các giải pháp thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển đổi năng lượng nhằm hướng tới xây dựng một nền năng lượng xanh, bền vững, bền vững. Để ngành năng lượng có thể đóng góp đáng kể vào việc thực hiện cam kết của Việt Nam tại COP26, Việt Nam đã quyết liệt các giải pháp.

Quy hoạch điện VIII đã và đang thể hiện rõ quan điểm trong tất cả các lĩnh vực cam kết của Chính phủ, đặc biệt là kiên định với mục tiêu phát triển năng lượng tái tạo. Dự kiến sẽ giảm 20.000 MW điện than với hàng chục dự án thông qua rà soát và tăng tỷ lệ năng lượng tái tạo như điện, điện mặt trời và điện gió ngoài khơi.

Tại cuộc họp, đại diện Ban Điện và NLTT cũng đã đưa ra những phân tích, dự báo và thách thức của Tập đoàn trong quá trình CDNL. Lĩnh vực điện, khí hậu chịu nhiều tác động do tăng trưởng nguồn NLTT, vấn đề khí thải, việc tham gia thị trường điện của các NMNĐ khí khi NLTT được ưu tiên huy động, và các dự án điện khí LNG đang đầu tư xây dựng phải xây dựng phương án khi chuyển đổi sang nhiên liệu hydrogen.

Dự báo thị trường trong lĩnh vực chế biến dầu khí cho thấy nhu cầu xăng của người tiêu dùng ở Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng và đạt đỉnh sớm trong những năm 2030–2035. Trong khi đó, tình trạng thiếu hụt nguồn cung DO dự báo sẽ tiếp tục kéo dài đến 2035.

Giai đoạn CDNL ngắn hạn 2022–2035, theo dự báo của Công ty CP Lọc hóa dầu Bình Sơn (BSR), CDNL sẽ không có tác động đáng kể đến nhu cầu sử dụng các sản phẩm xăng dầu ở Việt Nam. Giai đoạn CDNL dài hạn 2035–2025 sẽ diễn ra sâu rộng trên phạm vi toàn cầu, dẫn đến sự sụt giảm nhu cầu về các sản phẩm xăng dầu được sử dụng, đặt ra vấn đề cho các nhà máy lọc dầu phải nâng cao chất lượng sản phẩm đồng thời chuyển dịch cơ cấu sản phẩm theo hướng tăng dần tỷ trọng sản phẩm hóa dầu, hóa chất, giảm tỷ trọng sản phẩm nhiên liệu truyền thống,... nhu cầu cao của giai đoạn CDNL đối với H2, các sản phẩm nhựa cho ô tô điện và ô tô sử dụng pin H2,...

Sản lượng khai thác dầu đạt đỉnh vào năm 2005 và đang trên đà suy giảm mạnh, theo tổng kết và dự báo về tiềm năng trong lĩnh vực thăm dò, khai thác (E/P). Trong khi đó, sản lượng khai thác khí được dự đoán sẽ tăng đáng kể. Các nguồn khí mới có giá thành cao phải cạnh tranh với LNG, trong khi các nguồn khí giá rẻ đang suy giảm. Ngay cả trong kịch bản phát thải ròng bằng 0, dầu vẫn đóng vai trò nhất định trong giỏ năng lượng cho các mục đích phi năng lượng (chế biến sâu), sử dụng với CCUS, các lĩnh vực khó thay thế nhiên liệu (như ngành hàng không, giao thông đường biển)...

Theo đại diện Ban Điện/NLTT, cần khuyến khích đầu tư để khai thác tối đa nguồn tài nguyên trong nước và đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án nhằm tối ưu hóa chi phí. Để thuận lợi cho công tác thu xếp vốn tại một số dự án khí, đồng thời tạo tín chỉ carbon, giao dịch mua bán trên thị trường carbon, cần phải xây dựng thêm phương án thu hồi carbon.

Hiện tại, Petrovietnam đã triển khai việc ký MOU với ADB về hợp tác trong CDNL, trong đó ADB hỗ trợ Petrovietnam xây dựng chiến lược và lộ trình chuyển dịch năng lượng xanh, đánh giá cơ hội CCUS trong các lĩnh vực, xây dựng lộ trình CCUS và chuẩn bị một dự án thí điểm trở thành công ty hàng đầu trong nước về sản xuất, phân phối và lưu trữ hydro, tư vấn giao dịch hoặc cho vay để phát triển dự án gió ngoài khơi...

Về các công việc triển khai sắp tới, công việc CDNL được chia thành 12 nhóm nhiệm vụ liên quan đến NLTT; giảm phát thải khí nhà kính; sử dụng hiệu quả năng lượng và tiết kiệm năng lượng; hydrogen; ammonia; hệ thống pin/sạc, lưu trữ năng lượng, xanh hóa các nhà máy điện than, CCS/CCUS; truyền thông đào tạo; hỗ trợ kỹ thuật và tài chính cho các dự án liên quan đến CDNL; và công tác nghiên cứu R&D.

Các Phó Tổng Giám đốc Petrovietnam Lê Ngọc Sơn, Lê Xuân Huyên, đại diện các ban chuyên môn, Tổ giúp việc, các đơn vị PVEP, PV GAS, PVPower, PVOIL, PVFCCo, PVCFC, PTSC, BSR, VPI, PVcomBank đã báo cáo, cập nhật việc triển khai công tác CDNL, đồng thời đưa ra những phân tích, đề xuất, kiến nghị thực hiện nhiệm vụ trong thời gian tới.

Kết luận buổi họp, Tổng Giám đốc Petrovietnam Lê Mạnh Hùng cho biết, Tập đoàn bắt đầu triển khai, lập kế hoạch và lộ trình liên quan đến CDNL từ năm 2019, và công tác thực hiện còn dựa trên mục tiêu quốc gia. Đây là thực tiễn, trách nhiệm của Petrovietnam phải mang tính tiên phong, vì vậy toàn Tập đoàn phải quán triệt, nhận thức rõ về tầm quan trọng của CDNL và việc triển khai thực hiện sẽ liên tục mang tính lâu dài.

Tổng Giám đốc Tập đoàn đề nghị, Tổ công tác căn cứ vào hệ thống chính sách đã được ban hành để cụ thể hóa các vấn đề tác động đến Tập đoàn và cập nhật lộ trình CDNL tại Tập đoàn. Các ban chuyên môn, các đơn vị thành viên tiếp tục cập nhật, rà soát và nghiên cứu các công việc đã triển khai. Về mặt tổ chức, đảm bảo về nguồn lực, nhân sự tại các đơn vị quan trọng và cụ thể. Trên cơ sở ban chỉ đạo ban hành chương trình hành động và quy định về mặt quản trị, phân công cụ thể.

Tổng Giám đốc Lê Mạnh Hùng đề nghị các Phó Tổng Giám đốc phụ trách tiếp tục phân công các đơn vị thành viên tổ chức thực hiện đi kèm với thời hạn thực hiện 12 nhóm nhiệm vụ liên quan CDNL. Với nhóm nhiệm vụ của lĩnh vực E/P, tập trung vào các giải pháp đẩy nhanh tìm kiếm, thăm dò, khai thác, chú trọng nghiên cứu việc sử dụng NLTT trong khai khác dầu khí. Với lĩnh vực khí, tập trung phát triển thị trường, sản xuất bồn chứa vận chuyển, triển khai sử dụng điện mặt trời cho các nhà máy như Lọc dầu Dung Quất, ưu tiên thay đổi công nghệ, xanh hóa nhà máy, điện gió ngoài khơi, tập trung đánh giá thị trường của từng nhóm sản phẩm dịch vụ, xây dựng danh mục đầu tư CDNL, giao Viện Dầu khí và các đơn vị khâu đầu xây dựng dự án thử nghiệm Hydro, và...

Các thành viên của Ban Tổng Giám đốc, Ban Chỉ đạo và Tổ giúp việc của CDNL Tập đoàn, đại diện cho các Ban chuyên môn và các đơn vị thành viên của Tập đoàn cũng có mặt cùng dự buổi họp.

Báo cáo cập nhật của Ban Điện và Năng lượng tái tạo Tập đoàn về tình hình năng lượng và CDNL trên thế giới và Việt Nam cho thấy, CDNL vẫn diễn ra mạnh mẽ và là xu hướng toàn cầu. Để tránh các hậu quả của biến đổi khí hậu, mỗi quốc gia sẽ cân đối 3 yếu tố (an ninh năng lượng, môi trường, phát triển và tăng trưởng kinh tế) để chọn chiến lược và lộ trình riêng.

Thách thức và giải pháp của Petrovietnam trong chuyển dịch năng lượng
Tổng Giám đốc Petrovietnam Lê Mạnh Hùng chủ trì buổi họp

Các nguồn năng lượng tái tạo, sử dụng hiệu quả năng lượng/các phương tiện giao thông điện đang dẫn đầu trong đầu tư các loại năng lượng sạch cho xu hướng CDNL trên thế giới. Cuộc khủng hoảng năng lượng do xung đột giữa Nga và Ukraine đang thúc đẩy đầu tư mới vào nhiên liệu, bao gồm cả việc mở rộng nguồn cung than ở các nền kinh tế châu Á mới nổi, nổi bật trong thời gian qua.

Công tác CDNL của các tập đoàn dầu khí trên thế giới cũng đã trải qua những thay đổi về chiến lược đầu tư, trong đó thu hẹp hoạt động đầu tư dầu khí và tăng đầu tư vào công nghệ sạch, nhưng chỉ đạt 5% (so với tổng đầu tư) vào năm 2022. Trong đó, đầu tư lớn nhất vào ngành công nghiệp điện gió ngoài khơi đang tăng nhanh, tỷ trọng thu hồi và lưu trữ carbon cũng đang tăng lên. Trái ngược với xu hướng, các quốc gia ở Trung Đông lại có kế hoạch đầu tư nhiều hơn vào các hoạt động dầu khí so với năm 2019. Các công ty châu Âu dẫn đầu về công nghệ sạch.

Tính đến tháng 6/2022, đã có khoảng 40 quốc gia đưa ra các chiến lược và lộ trình hydrogen, trong đó Trung Quốc, Mỹ, Ấn Độ, Nga và Nhật là những quốc gia hàng đầu về phát thải nhà kính. Hiện nay, 98% hydrogen trên thế giới được sản xuất từ khí đốt và than, được sử dụng để lọc dầu và hóa chất. Tuy nhiên, việc mở rộng ứng dụng hydro trong giao thông và công nghiệp nặng sẽ giúp mở đường cho chuỗi sản xuất hydrogen. Các công ty dầu khí đã và đang đẩy mạnh đầu tư phát triển các dự án xanh hydrogen (bao gồm chuỗi từ sản xuất, mạng lưới tiếp nhiên liệu và lưu trữ hydro) để khử cacbon trong danh mục kinh doanh.

Thách thức và giải pháp của Petrovietnam trong chuyển dịch năng lượng
Toàn cảnh buổi họp

Do sự sẵn có của mạng lưới đường ống CO2 và nhu cầu CO2 cho EOR, cũng như các chương trình tài trợ công của Chính phủ, việc triển khai thu giữ carbon cho đến nay tập trung ở Hoa Kỳ (gần một nửa số cơ sở hoạt động). Các cơ sở thu giữ, sử dụng tuần hoàn và lưu trữ khí thải CO2 (CCUS) đã được đưa vào hoạt động ở Úc, Brazil, Canada, Trung Quốc, Ả Rập Xê Út và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất trong mười năm qua...

Kế hoạch cho khoảng 130 dự án thu giữ CO2 quy mô thương mại sẽ được công bố vào năm 2021. Các kế hoạch này nhằm thu hồi CO2 từ các hoạt động sản xuất (một nửa trong số đó là từ sản xuất hydrogen và nhiên liệu sinh học).

Tại Hội nghị thượng đỉnh về biến đổi khí hậu của Liên Hợp Quốc năm 2021 (COP26), Việt Nam đã thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia quốc gia triển khai thực hiện cam kết của mình. Việt Nam đang quyết liệt các giải pháp thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển đổi năng lượng nhằm hướng tới xây dựng một nền năng lượng xanh, bền vững, bền vững. Để ngành năng lượng có thể đóng góp đáng kể vào việc thực hiện cam kết của Việt Nam tại COP26, Việt Nam đã quyết liệt các giải pháp.

Quy hoạch điện VIII đã và đang thể hiện rõ quan điểm trong tất cả các lĩnh vực cam kết của Chính phủ, đặc biệt là kiên định với mục tiêu phát triển năng lượng tái tạo. Dự kiến sẽ giảm 20.000 MW điện than với hàng chục dự án thông qua rà soát và tăng tỷ lệ năng lượng tái tạo như điện, điện mặt trời và điện gió ngoài khơi.

Tại cuộc họp, đại diện Ban Điện và NLTT cũng đã đưa ra những phân tích, dự báo và thách thức của Tập đoàn trong quá trình CDNL. Lĩnh vực điện, khí hậu chịu nhiều tác động do tăng trưởng nguồn NLTT, vấn đề khí thải, việc tham gia thị trường điện của các NMNĐ khí khi NLTT được ưu tiên huy động, và các dự án điện khí LNG đang đầu tư xây dựng phải xây dựng phương án khi chuyển đổi sang nhiên liệu hydrogen.

Dự báo thị trường trong lĩnh vực chế biến dầu khí cho thấy nhu cầu xăng của người tiêu dùng ở Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng và đạt đỉnh sớm trong những năm 2030–2035. Trong khi đó, tình trạng thiếu hụt nguồn cung DO dự báo sẽ tiếp tục kéo dài đến 2035.

Giai đoạn CDNL ngắn hạn 2022–2035, theo dự báo của Công ty CP Lọc hóa dầu Bình Sơn (BSR), CDNL sẽ không có tác động đáng kể đến nhu cầu sử dụng các sản phẩm xăng dầu ở Việt Nam. Giai đoạn CDNL dài hạn 2035–2025 sẽ diễn ra sâu rộng trên phạm vi toàn cầu, dẫn đến sự sụt giảm nhu cầu về các sản phẩm xăng dầu được sử dụng, đặt ra vấn đề cho các nhà máy lọc dầu phải nâng cao chất lượng sản phẩm đồng thời chuyển dịch cơ cấu sản phẩm theo hướng tăng dần tỷ trọng sản phẩm hóa dầu, hóa chất, giảm tỷ trọng sản phẩm nhiên liệu truyền thống,... nhu cầu cao của giai đoạn CDNL đối với H2, các sản phẩm nhựa cho ô tô điện và ô tô sử dụng pin H2,...

Sản lượng khai thác dầu đạt đỉnh vào năm 2005 và đang trên đà suy giảm mạnh, theo tổng kết và dự báo về tiềm năng trong lĩnh vực thăm dò, khai thác (E/P). Trong khi đó, sản lượng khai thác khí được dự đoán sẽ tăng đáng kể. Các nguồn khí mới có giá thành cao phải cạnh tranh với LNG, trong khi các nguồn khí giá rẻ đang suy giảm. Ngay cả trong kịch bản phát thải ròng bằng 0, dầu vẫn đóng vai trò nhất định trong giỏ năng lượng cho các mục đích phi năng lượng (chế biến sâu), sử dụng với CCUS, các lĩnh vực khó thay thế nhiên liệu (như ngành hàng không, giao thông đường biển)...

Theo đại diện Ban Điện/NLTT, cần khuyến khích đầu tư để khai thác tối đa nguồn tài nguyên trong nước và đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án nhằm tối ưu hóa chi phí. Để thuận lợi cho công tác thu xếp vốn tại một số dự án khí, đồng thời tạo tín chỉ carbon, giao dịch mua bán trên thị trường carbon, cần phải xây dựng thêm phương án thu hồi carbon.

Hiện tại, Petrovietnam đã triển khai việc ký MOU với ADB về hợp tác trong CDNL, trong đó ADB hỗ trợ Petrovietnam xây dựng chiến lược và lộ trình chuyển dịch năng lượng xanh, đánh giá cơ hội CCUS trong các lĩnh vực, xây dựng lộ trình CCUS và chuẩn bị một dự án thí điểm trở thành công ty hàng đầu trong nước về sản xuất, phân phối và lưu trữ hydro, tư vấn giao dịch hoặc cho vay để phát triển dự án gió ngoài khơi...

Về các công việc triển khai sắp tới, công việc CDNL được chia thành 12 nhóm nhiệm vụ liên quan đến NLTT; giảm phát thải khí nhà kính; sử dụng hiệu quả năng lượng và tiết kiệm năng lượng; hydrogen; ammonia; hệ thống pin/sạc, lưu trữ năng lượng, xanh hóa các nhà máy điện than, CCS/CCUS; truyền thông đào tạo; hỗ trợ kỹ thuật và tài chính cho các dự án liên quan đến CDNL; và công tác nghiên cứu R&D.

Các Phó Tổng Giám đốc Petrovietnam Lê Ngọc Sơn, Lê Xuân Huyên, đại diện các ban chuyên môn, Tổ giúp việc, các đơn vị PVEP, PV GAS, PVPower, PVOIL, PVFCCo, PVCFC, PTSC, BSR, VPI, PVcomBank đã báo cáo, cập nhật việc triển khai công tác CDNL, đồng thời đưa ra những phân tích, đề xuất, kiến nghị thực hiện nhiệm vụ trong thời gian tới.

Kết luận buổi họp, Tổng Giám đốc Petrovietnam Lê Mạnh Hùng cho biết, Tập đoàn bắt đầu triển khai, lập kế hoạch và lộ trình liên quan đến CDNL từ năm 2019, và công tác thực hiện còn dựa trên mục tiêu quốc gia. Đây là thực tiễn, trách nhiệm của Petrovietnam phải mang tính tiên phong, vì vậy toàn Tập đoàn phải quán triệt, nhận thức rõ về tầm quan trọng của CDNL và việc triển khai thực hiện sẽ liên tục mang tính lâu dài.

Tổng Giám đốc Tập đoàn đề nghị, Tổ công tác căn cứ vào hệ thống chính sách đã được ban hành để cụ thể hóa các vấn đề tác động đến Tập đoàn và cập nhật lộ trình CDNL tại Tập đoàn. Các ban chuyên môn, các đơn vị thành viên tiếp tục cập nhật, rà soát và nghiên cứu các công việc đã triển khai. Về mặt tổ chức, đảm bảo về nguồn lực, nhân sự tại các đơn vị quan trọng và cụ thể. Trên cơ sở ban chỉ đạo ban hành chương trình hành động và quy định về mặt quản trị, phân công cụ thể.

Tổng Giám đốc Lê Mạnh Hùng đề nghị các Phó Tổng Giám đốc phụ trách tiếp tục phân công các đơn vị thành viên tổ chức thực hiện đi kèm với thời hạn thực hiện 12 nhóm nhiệm vụ liên quan CDNL. Với nhóm nhiệm vụ của lĩnh vực E/P, tập trung vào các giải pháp đẩy nhanh tìm kiếm, thăm dò, khai thác, chú trọng nghiên cứu việc sử dụng NLTT trong khai khác dầu khí. Với lĩnh vực khí, tập trung phát triển thị trường, sản xuất bồn chứa vận chuyển, triển khai sử dụng điện mặt trời cho các nhà máy như Lọc dầu Dung Quất, ưu tiên thay đổi công nghệ, xanh hóa nhà máy, điện gió ngoài khơi, tập trung đánh giá thị trường của từng nhóm sản phẩm dịch vụ, xây dựng danh mục đầu tư CDNL, giao Viện Dầu khí và các đơn vị khâu đầu xây dựng dự án thử nghiệm Hydro, và...

Minh Châu

Cập nhật tin tức công nghệ mới nhất tại fanpage Công nghệ & Cuộc sống

Nguồn tin:

 

Tham gia bình luận