Tiềm năng điện gió ngoài khơi phải được tận dụng tối đa và hiệu quả ở Việt Nam.

Tiềm năng điện gió ngoài khơi phải được tận dụng tối đa và hiệu quả ở Việt Nam.

Diễn đàn Năng lượng sạch Việt Nam (lần thứ Ba), do Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Quốc hội chủ trì, phối hợp với Hội đồng Khoa học Tạp chí Năng lượng Việt Nam, được tổ chức tại Hà Nội vào sáng ngày 12/5/2023. "Phát triển hạ tầng điện khí và điện gió tại Việt Nam."

Việt Nam cần tận dụng tối đa và hiệu quả tiềm năng điện gió ngoài khơi
TS Tạ Đình Thi - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Quốc hội: Việt Nam được đánh giá là có tiềm năng điện gió ngoài khơi lớn nhất Đông Nam Á nên cần tận dụng tối đa và hiệu quả tiềm năng đó

Phát biểu khai mạc Diễn đàn, TS Tạ Đình Thi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Quốc hội, cho biết: Là một trong sáu nước trên thế giới bị ảnh hưởng lớn nhất do biến đổi khí hậu, Việt Nam đã và đang tiên phong trong việc thực hiện các cam kết "xanh", được cộng đồng quốc tế coi là hình mẫu về một nước đang phát triển còn nhiều khó khăn nhưng đã có những đóng góp quan trọng cho "ngôi nhà chung" an toàn của nhân loại. Việt Nam đã cam kết xây dựng và triển khai các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính mạnh mẽ bằng nguồn lực của chính mình tại Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP26), cùng với sự hợp tác và hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, nhằm đạt mức phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050.

Chính phủ Việt Nam và Nhóm các Đối tác quốc tế đã chính thức thông qua Tuyên bố chính trị thiết lập Quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng với các đối tác quốc tế (JETP) trên cơ sở cam kết tại COP26. Việt Nam cần đẩy mạnh phát triển năng lượng tái tạo, nâng cao hiệu suất năng lượng và chuyển đổi năng lượng với một lộ trình phù hợp vừa bảo đảm mục tiêu bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, vừa giảm tối đa gánh nặng chi phí, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế và giải quyết hiệu quả các vấn đề xã hội để đạt được mục tiêu này.

Chính phủ đang chỉ đạo hoàn thiện Dự thảo Quy hoạch Phát triển Điện lực Quốc gia cho năm 2021–2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch Điện VIII). Theo đó, đề xuất phát triển điện gió trên bờ và điện gió ngoài khơi, phát triển nhiệt điện khí dùng khí trong nước (chuỗi khí - điện Lô B, Cá Voi Xanh) và thay thế dần nhiệt điện than, giảm phát thải khí nhà kính.

Việt Nam cần tận dụng tối đa và hiệu quả tiềm năng điện gió ngoài khơi
Tổng công ty Cổ phần Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí Việt Nam (PTSC) thực hiện công tác lắp đặt cáp ngầm cho dự án điện gió Tân Thuận

Việt Nam được coi là có tiềm năng điện gió ngoài khơi lớn nhất Đông Nam Á, vì vậy điều quan trọng là tận dụng tối đa và hiệu quả tiềm năng đó. Phải mất 6 đến 7 năm (từ khi khảo sát đến khi xây dựng xong) để hoàn thành một dự án điện gió ngoài trời. Dự án yêu cầu cơ sở hạ tầng gần nhất có thể được sử dụng để khảo sát, xây dựng lưới truyền tải và vận hành, bảo dưỡng. Mặc dù các thiết bị chính phải nhập khẩu, nhưng các thiết bị phụ trợ cho Việt Nam có thể sản xuất được. Việt Nam phải chuẩn bị để tham gia sâu rộng vào chuỗi cung ứng cho điện gió đầy tiềm năng.

Theo dự thảo Quy hoạch điện VIII, Việt Nam cần phát triển từ 14.900 đến 22.400 MW điện khí LNG nhập khẩu vào năm 2030 và có thể tăng lên 32.400 MW vào năm 2035 để tăng thêm nguồn điện nền, cân bằng và khai thác hiệu quả nguồn điện rất lớn từ năng lượng tái tạo. Để nhập khẩu và lưu trữ một lượng khí LNG đủ cho các nhà máy điện vận hành ổn định và có thể ký hợp đồng mua khí LNG dài hạn, chúng ta cần có cơ sở hạ tầng. Điện LNG là "chuỗi nhiên liệu" phức tạp được tạo thành từ cảng - kho - hệ thống tái hóa khí - đường ống - nhà máy điện. Hạ tầng điện khí bao gồm các khâu thượng, trung và hạ nguồn. Cuối cùng là cơ chế giá và sự huy động phát điện để đảm bảo hiệu quả của chuỗi dự án.

Việt Nam cần tận dụng tối đa và hiệu quả tiềm năng điện gió ngoài khơi
Ông Phạm Quang Huy, Phó Cục trưởng Cục Điều tiết điện lực (Bộ Công Thương): Cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện khung chính sách cũng như cơ chế quản lý nhà nước đối với ngành năng lượng cho phù hợp với tình hình mới

Phó Cục trưởng Cục Điều tiết điện lực (Bộ Công Thương) Phạm Quang Huy cho rằng, hiện việc đàm phán hợp đồng mua bán điện còn khó khăn do các nhà máy đều mong muốn tỷ lệ cam kết sản lượng hợp đồng cao, để quản lý rủi ro rõ ràng ít được huy động trên thị trường điện khi giá khí liên tục tăng.

Việc đàm phán sản lượng điện hợp đồng không đủ cao sẽ khiến chủ đầu tư khó có khả năng vay vốn để thực hiện dự án và trang trải chi phí. Mua khí theo hợp đồng dài hạn là một lựa chọn khác để giảm rủi ro về giá nhiên liệu khí. Tuy nhiên, luôn đi kèm với các ràng buộc về sản lượng, trở thành một trong những trở ngại lớn hơn trong việc đầu tư các nhà máy điện khí trong những năm gần đây.

"Để hướng tới mục tiêu thu hút thêm sự tham gia ngày càng nhiều của khu vực tư nhân vào phát triển cơ sở hạ tầng và cung cấp dịch vụ năng lượng, cũng như tận dụng được nguồn tài nguyên quốc gia và đảm bảo cân bằng an toàn vận hành hệ thống, điều cần thiết là tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện khung chính sách và cơ chế quản lý nhà nước đối với ngành năng lượng cho phù hợp với tình hình mới" - ông Phạm Quang Huy chỉ ra.

Các đại biểu đã tập trung thảo luận, trao đổi, làm rõ thêm các cơ hội phát triển, các vấn đề nổi cộm, các thiết bị, công nghệ tiên tiến phù hợp, nêu bật giải pháp trong các lĩnh vực này, tập trung vào các vấn đề giải quyết các vướng mắc, bất cập để tiếp tục phát triển điện khí và điện gió theo quy hoạch, là căn cứ khoa học để đề nghị các cấp thẩm quyền sớm ban hành các chính sách, pháp luật phù hợp, thực thi hiệu quả nhằm đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia và thực hiện cam kết quốc tế về ngăn chặn biến đổi khí hậu.

Việt Nam cần tận dụng tối đa và hiệu quả tiềm năng điện gió ngoài khơi
Toàn cảnh Diễn đàn Năng lượng sạch Việt Nam (lần thứ Ba)

Tại Nghị quyết 55 của Bộ Chính trị về Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia Việt Nam đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045, các ý kiến thảo luận đều thống nhất cho rằng điện khí được coi là không thể thiếu trong quá trình chuyển dịch năng lượng sang ít phát thải carbon. "Ưu tiên đầu tư hạ tầng kỹ thuật cho nhập khẩu và tiêu thụ LNG" và "Tập trung phát triển nhiệt điện LNG, từng bước đưa các dự án điện LNG trở thành nguồn cung cấp điện quan trọng, hỗ trợ điều độ hệ thống điện" đều được khẳng định. Sự linh hoạt về công suất của điện khí là rất cần thiết trong bối cảnh tỷ lệ công suất điện NLTT tăng lên. Tuy nhiên, giá điện khí LNG khá cao và phụ thuộc vào sự biến động của thị trường thế giới (như đã thấy trong năm 2022).

Để nhập khẩu và lưu trữ một lượng khí LNG đủ cho các nhà máy điện chạy ổn định và có thể ký hợp đồng mua khí LNG dài hạn, Việt Nam cần có cơ sở hạ tầng. Rủi ro về giá do các xung đột địa chính trị trên thế giới gây ra chỉ có thể được ngăn chặn bằng hợp đồng mua dài hạn. Điện LNG là "chuỗi nhiên liệu" phức tạp được tạo thành từ cảng, kho, hệ thống tái hóa khí, đường ống và nhà máy điện. Các khâu thượng, trung và hạ nguồn được sử dụng để tạo hạ tầng điện khí. Cuối cùng là cơ chế giá và sự huy động của phát điện để đảm bảo hiệu quả của chuỗi dự án...

Các giải pháp tháo gỡ cho điện gió phải đến từ cả hai phía: Nhà nước và doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cũng cần xem xét kỹ khi chuẩn bị đầu tư về các quy định dự án trong quy hoạch, địa điểm phù hợp, mức độ thuận lợi khi cần thiết có hạ tầng lưới điện truyền tải, khả năng tài chính, nguồn vốn vay, khả năng huy động nguồn lực về công nghệ, thiết bị, v.v. để giảm thiểu rủi ro. Tiềm năng điện gió ngoài khơi rất lớn, vì vậy cần phải xây dựng cơ chế chính sách thu hút đầu tư thúc đẩy sản xuất trong nước chuỗi sản xuất - cung ứng thiết bị cho các dự án điện gió ngoại khơi và xuất khẩu trong khu vực.

Phát biểu kết luận Diễn đàn, Tiến sĩ Tạ Đình Thi đánh giá cao các nội dung được các đại biểu trao đổi, thảo luận tại diễn đàn, là những ý kiến tâm huyết, được chuẩn bị kỹ lưỡng, công phu, khoa học đối với vấn đề quan trọng trong phát triển năng lượng của đất nước là hạ tầng nguồn điện khí và điện gió. Các tham luận đã nêu vướng mắc về quy định pháp luật, cũng như các rào cản và thách thức trong triển khai phát triển hạ tầng nguồn điện khí LNG và điện gió, cho thấy còn nhiều vấn đề cần được khắc phục trong thời gian tới. Có một số khó khăn đã được nêu ra bên cạnh việc chậm trễ Quy hoạch Điện VIII, vốn làm đình trệ nhiều dự án điện.

"Với trách nhiệm là cơ quan tham mưu Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội "Việc thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng giai đoạn 2016–2021", chúng tôi sẽ tổng hợp, xử lý và xây dựng báo cáo tổng thuật hội thảo với những đánh giá, nhận xét, đề xuất, kiến nghị cụ thể với các cơ quan liên quan, đặc biệt là trong việc hoàn thiện chính sách, pháp luật phát triển năng lượng nói chung và phát triển hạ tầng điện cho các nguồn khí LNG và điện gió nói riêng", TS Tạ Đình Thi nhấn mạnh.

Hải Anh

Diễn đàn Năng lượng sạch Việt Nam (lần thứ Ba), do Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Quốc hội chủ trì, phối hợp với Hội đồng Khoa học Tạp chí Năng lượng Việt Nam, được tổ chức tại Hà Nội vào sáng ngày 12/5/2023. "Phát triển hạ tầng điện khí và điện gió tại Việt Nam."

Việt Nam cần tận dụng tối đa và hiệu quả tiềm năng điện gió ngoài khơi
TS Tạ Đình Thi - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Quốc hội: Việt Nam được đánh giá là có tiềm năng điện gió ngoài khơi lớn nhất Đông Nam Á nên cần tận dụng tối đa và hiệu quả tiềm năng đó

Phát biểu khai mạc Diễn đàn, TS Tạ Đình Thi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Quốc hội, cho biết: Là một trong sáu nước trên thế giới bị ảnh hưởng lớn nhất do biến đổi khí hậu, Việt Nam đã và đang tiên phong trong việc thực hiện các cam kết "xanh", được cộng đồng quốc tế coi là hình mẫu về một nước đang phát triển còn nhiều khó khăn nhưng đã có những đóng góp quan trọng cho "ngôi nhà chung" an toàn của nhân loại. Việt Nam đã cam kết xây dựng và triển khai các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính mạnh mẽ bằng nguồn lực của chính mình tại Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP26), cùng với sự hợp tác và hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, nhằm đạt mức phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050.

Chính phủ Việt Nam và Nhóm các Đối tác quốc tế đã chính thức thông qua Tuyên bố chính trị thiết lập Quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng với các đối tác quốc tế (JETP) trên cơ sở cam kết tại COP26. Việt Nam cần đẩy mạnh phát triển năng lượng tái tạo, nâng cao hiệu suất năng lượng và chuyển đổi năng lượng với một lộ trình phù hợp vừa bảo đảm mục tiêu bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, vừa giảm tối đa gánh nặng chi phí, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế và giải quyết hiệu quả các vấn đề xã hội để đạt được mục tiêu này.

Chính phủ đang chỉ đạo hoàn thiện Dự thảo Quy hoạch Phát triển Điện lực Quốc gia cho năm 2021–2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch Điện VIII). Theo đó, đề xuất phát triển điện gió trên bờ và điện gió ngoài khơi, phát triển nhiệt điện khí dùng khí trong nước (chuỗi khí - điện Lô B, Cá Voi Xanh) và thay thế dần nhiệt điện than, giảm phát thải khí nhà kính.

Việt Nam cần tận dụng tối đa và hiệu quả tiềm năng điện gió ngoài khơi
Tổng công ty Cổ phần Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí Việt Nam (PTSC) thực hiện công tác lắp đặt cáp ngầm cho dự án điện gió Tân Thuận

Việt Nam được coi là có tiềm năng điện gió ngoài khơi lớn nhất Đông Nam Á, vì vậy điều quan trọng là tận dụng tối đa và hiệu quả tiềm năng đó. Phải mất 6 đến 7 năm (từ khi khảo sát đến khi xây dựng xong) để hoàn thành một dự án điện gió ngoài trời. Dự án yêu cầu cơ sở hạ tầng gần nhất có thể được sử dụng để khảo sát, xây dựng lưới truyền tải và vận hành, bảo dưỡng. Mặc dù các thiết bị chính phải nhập khẩu, nhưng các thiết bị phụ trợ cho Việt Nam có thể sản xuất được. Việt Nam phải chuẩn bị để tham gia sâu rộng vào chuỗi cung ứng cho điện gió đầy tiềm năng.

Theo dự thảo Quy hoạch điện VIII, Việt Nam cần phát triển từ 14.900 đến 22.400 MW điện khí LNG nhập khẩu vào năm 2030 và có thể tăng lên 32.400 MW vào năm 2035 để tăng thêm nguồn điện nền, cân bằng và khai thác hiệu quả nguồn điện rất lớn từ năng lượng tái tạo. Để nhập khẩu và lưu trữ một lượng khí LNG đủ cho các nhà máy điện vận hành ổn định và có thể ký hợp đồng mua khí LNG dài hạn, chúng ta cần có cơ sở hạ tầng. Điện LNG là "chuỗi nhiên liệu" phức tạp được tạo thành từ cảng - kho - hệ thống tái hóa khí - đường ống - nhà máy điện. Hạ tầng điện khí bao gồm các khâu thượng, trung và hạ nguồn. Cuối cùng là cơ chế giá và sự huy động phát điện để đảm bảo hiệu quả của chuỗi dự án.

Việt Nam cần tận dụng tối đa và hiệu quả tiềm năng điện gió ngoài khơi
Ông Phạm Quang Huy, Phó Cục trưởng Cục Điều tiết điện lực (Bộ Công Thương): Cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện khung chính sách cũng như cơ chế quản lý nhà nước đối với ngành năng lượng cho phù hợp với tình hình mới

Phó Cục trưởng Cục Điều tiết điện lực (Bộ Công Thương) Phạm Quang Huy cho rằng, hiện việc đàm phán hợp đồng mua bán điện còn khó khăn do các nhà máy đều mong muốn tỷ lệ cam kết sản lượng hợp đồng cao, để quản lý rủi ro rõ ràng ít được huy động trên thị trường điện khi giá khí liên tục tăng.

Việc đàm phán sản lượng điện hợp đồng không đủ cao sẽ khiến chủ đầu tư khó có khả năng vay vốn để thực hiện dự án và trang trải chi phí. Mua khí theo hợp đồng dài hạn là một lựa chọn khác để giảm rủi ro về giá nhiên liệu khí. Tuy nhiên, luôn đi kèm với các ràng buộc về sản lượng, trở thành một trong những trở ngại lớn hơn trong việc đầu tư các nhà máy điện khí trong những năm gần đây.

"Để hướng tới mục tiêu thu hút thêm sự tham gia ngày càng nhiều của khu vực tư nhân vào phát triển cơ sở hạ tầng và cung cấp dịch vụ năng lượng, cũng như tận dụng được nguồn tài nguyên quốc gia và đảm bảo cân bằng an toàn vận hành hệ thống, điều cần thiết là tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện khung chính sách và cơ chế quản lý nhà nước đối với ngành năng lượng cho phù hợp với tình hình mới" - ông Phạm Quang Huy chỉ ra.

Các đại biểu đã tập trung thảo luận, trao đổi, làm rõ thêm các cơ hội phát triển, các vấn đề nổi cộm, các thiết bị, công nghệ tiên tiến phù hợp, nêu bật giải pháp trong các lĩnh vực này, tập trung vào các vấn đề giải quyết các vướng mắc, bất cập để tiếp tục phát triển điện khí và điện gió theo quy hoạch, là căn cứ khoa học để đề nghị các cấp thẩm quyền sớm ban hành các chính sách, pháp luật phù hợp, thực thi hiệu quả nhằm đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia và thực hiện cam kết quốc tế về ngăn chặn biến đổi khí hậu.

Việt Nam cần tận dụng tối đa và hiệu quả tiềm năng điện gió ngoài khơi
Toàn cảnh Diễn đàn Năng lượng sạch Việt Nam (lần thứ Ba)

Tại Nghị quyết 55 của Bộ Chính trị về Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia Việt Nam đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045, các ý kiến thảo luận đều thống nhất cho rằng điện khí được coi là không thể thiếu trong quá trình chuyển dịch năng lượng sang ít phát thải carbon. "Ưu tiên đầu tư hạ tầng kỹ thuật cho nhập khẩu và tiêu thụ LNG" và "Tập trung phát triển nhiệt điện LNG, từng bước đưa các dự án điện LNG trở thành nguồn cung cấp điện quan trọng, hỗ trợ điều độ hệ thống điện" đều được khẳng định. Sự linh hoạt về công suất của điện khí là rất cần thiết trong bối cảnh tỷ lệ công suất điện NLTT tăng lên. Tuy nhiên, giá điện khí LNG khá cao và phụ thuộc vào sự biến động của thị trường thế giới (như đã thấy trong năm 2022).

Để nhập khẩu và lưu trữ một lượng khí LNG đủ cho các nhà máy điện chạy ổn định và có thể ký hợp đồng mua khí LNG dài hạn, Việt Nam cần có cơ sở hạ tầng. Rủi ro về giá do các xung đột địa chính trị trên thế giới gây ra chỉ có thể được ngăn chặn bằng hợp đồng mua dài hạn. Điện LNG là "chuỗi nhiên liệu" phức tạp được tạo thành từ cảng, kho, hệ thống tái hóa khí, đường ống và nhà máy điện. Các khâu thượng, trung và hạ nguồn được sử dụng để tạo hạ tầng điện khí. Cuối cùng là cơ chế giá và sự huy động của phát điện để đảm bảo hiệu quả của chuỗi dự án...

Các giải pháp tháo gỡ cho điện gió phải đến từ cả hai phía: Nhà nước và doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cũng cần xem xét kỹ khi chuẩn bị đầu tư về các quy định dự án trong quy hoạch, địa điểm phù hợp, mức độ thuận lợi khi cần thiết có hạ tầng lưới điện truyền tải, khả năng tài chính, nguồn vốn vay, khả năng huy động nguồn lực về công nghệ, thiết bị, v.v. để giảm thiểu rủi ro. Tiềm năng điện gió ngoài khơi rất lớn, vì vậy cần phải xây dựng cơ chế chính sách thu hút đầu tư thúc đẩy sản xuất trong nước chuỗi sản xuất - cung ứng thiết bị cho các dự án điện gió ngoại khơi và xuất khẩu trong khu vực.

Phát biểu kết luận Diễn đàn, Tiến sĩ Tạ Đình Thi đánh giá cao các nội dung được các đại biểu trao đổi, thảo luận tại diễn đàn, là những ý kiến tâm huyết, được chuẩn bị kỹ lưỡng, công phu, khoa học đối với vấn đề quan trọng trong phát triển năng lượng của đất nước là hạ tầng nguồn điện khí và điện gió. Các tham luận đã nêu vướng mắc về quy định pháp luật, cũng như các rào cản và thách thức trong triển khai phát triển hạ tầng nguồn điện khí LNG và điện gió, cho thấy còn nhiều vấn đề cần được khắc phục trong thời gian tới. Có một số khó khăn đã được nêu ra bên cạnh việc chậm trễ Quy hoạch Điện VIII, vốn làm đình trệ nhiều dự án điện.

"Với trách nhiệm là cơ quan tham mưu Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội "Việc thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng giai đoạn 2016–2021", chúng tôi sẽ tổng hợp, xử lý và xây dựng báo cáo tổng thuật hội thảo với những đánh giá, nhận xét, đề xuất, kiến nghị cụ thể với các cơ quan liên quan, đặc biệt là trong việc hoàn thiện chính sách, pháp luật phát triển năng lượng nói chung và phát triển hạ tầng điện cho các nguồn khí LNG và điện gió nói riêng", TS Tạ Đình Thi nhấn mạnh.

Hải Anh

Cập nhật tin tức công nghệ mới nhất tại fanpage Công nghệ & Cuộc sống

Nguồn tin:

 

Tham gia bình luận