Cán bộ biên phòng biết năm thứ tiếng dân tộc

Cán bộ biên phòng biết năm thứ tiếng dân tộc

Mặc dù bắt đầu tham gia công tác chưa lâu, Thượng úy Vàng Văn Vinh, ở Đồn Biên phòng Si Ma Cai, tỉnh Lào Cai, nổi tiếng là người biết nhiều thứ tiếng, trong đó chủ yếu là tiếng đồng bào thiểu số: "Biết được khoảng năm thứ tiếng, tiếng La Chí, tiếng Tày, tiếng Nùng, tiếng Thu Lao và khoảng 30% tiếng Mông. Đôi khi xuống với bà con nhân dân của mình và tự nhủ hôm nay không được phép nói tiếng Kinh, phải nói tiếng dân tộc để thử thách bản thân. Tất cả 13 dân tộc trên này, đi chỗ nào là mình trực tiếp học ở đó.

Vàng Văn Vinh là người La Chí, sinh ra ở xã Na Hối, huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai. Thượng úy trẻ này khai rằng bản thân đã tiếp xúc với ngôn ngữ từ rất sớm và bản thân vốn là người La Chí nhưng lại sống trong cộng đồng người Tày và người Nùng nên rất hiểu tiếng nói của bà con. Mặc dù khác nhau nhưng vẫn có những điểm tương đồng. Ví dụ, sau khi tiếp xúc với tiếng Thu Lao, tôi đã biết tiếng Tày và tiếng Nùng; tuy nhiên, để nói được thì cũng cần biết tiếng Nùng. Hoặc, ví dụ, sau khi tôi biết tiếng Tày, tiếng Nùng và tiếng Thái, tôi cũng có khoảng 10 đến 15% tiếng Thái nên quá trình học tập cũng đơn giản hơn nhiều.

Vàng Văn Vinh trở về công tác tại địa phương vào năm 2015 sau khi tốt nghiệp Học viện Biên phòng và vai trò của anh ấy trong vai trò đặc biệt của người lính quân hàm xanh giúp sở trường về ngôn ngữ của Vinh được phát huy.

Xuất phát từ phương châm "4 cùng" của bộ đội biên phòng, đặc biệt là cùng ăn, cùng ở, cùng làm việc, cùng làm với bà con là có thể học từng từ một, bản thân lúc nào cũng tranh thủ học hỏi, ngay cả trong thời gian giao lưu văn hóa, văn nghệ và đồng với bà con. Sau đó khi về Vinh, những kiến thức đó được hệ thống lại. Ngoài ra, đơn vị Vinh còn dành thời gian tự nghiên cứu: "Bộ đội biên phòng có rất nhiều sách để học; cán bộ chiến sĩ vẫn thường xuyên tranh thủ thì giờ rảnh rỗi để tự học. Ở đây tiếp giáp với Trung Quốc, cần phải tự học thêm tiếng Trung.

Thượng úy Vinh cho rằng việc học từ trong cuộc sống vẫn là cách nhanh nhất và dễ tiếp thu nhất để học, kiến thức thu về cũng thiết thực hơn và gần gũi hơn so với sách vở. Trong đó, Vinh đang tích cực học tiếng Mông, tiếng khó nhất.

"Có một lần được phân công xuống chi bộ thôn bản sinh hoạt. Có ăn cơm để mừng tân đảng viên mới vào ngày đó, khi kết nạp đảng viên mới diễn ra. Vào bữa cơm, cô con có bảo: Đến lượt cháu, cháu mời chú một chén, và cháu nói bằng tiếng Mông xem. Lúc đó tôi mới nghĩ, trời ơi, sao tất cả những từ khác mình đều học rồi mà một câu đơn giản như vậy lại không biết. Xong rồi mình mới quay ra cầu cứu anh Bí thư chi bộ, người mới vỡ ra. Theo Vàng Văn Vinh, chính trong quá trình sinh hoạt cùng bà con mình tích lũy được từng câu như vậy, chỉ cần được hướng dẫn vài ba lần là nhớ.

Vàng Văn Vinh càng cảm thấy rằng việc học tiếng đồng bào địa phương là một nhiệm vụ quan trọng của người lính biên phòng, nhất là ở những địa bàn vùng cao, đa dân tộc, đa văn hóa, đời sống bà con còn khó khăn: "Ngày trước mình học những từ cơ bản của cuộc sống rồi. Tuy nhiên, để diễn đạt các chủ trương và chính sách của Đảng bằng tiếng dân tộc, cần phải học nhiều hơn, nghĩa là mỗi dân tộc phải có một tiếng nói, một tập quán riêng, một tập hợp các chi tiết cụ thể và được dân hiểu.

Việc biết nhiều thứ tiếng dân tộc đã giúp ích cực kỳ cho Vàng Văn Vinh trong công việc, từ đó tăng thêm được dân quý, dân tin: "Có một lần đến mùa cày cấy, mương nước của cả làng chia sẻ một cái để dẫn nước vào ruộng. Tuy nhiên, vào dịp này, nhà trên, nhà dưới đều muốn lấy nước. Khi tôi có dịp xuống, đi dọc đường và nghe một bà con ấm ức nói, tôi nghe hiểu được câu hỏi mà tôi nghe được quay ra hỏi mới vỡ lẽ cả ngày vì không nhà nào làm ruộng cả vì nhà này cản trở nhà kia. Tôi mới bảo buổi sáng mai cháu xuống giúp nhà kia trước, tháo nước cho họ làm, rồi buổi chiều cháu lại rủ nhà kia lên giúp chú. Vào thời điểm đó, họ chỉ đơn giản là ở lại với nhau.

Theo lời kể của Vàng Văn Vinh, thời gian mới về đây, khi đang tìm hiểu địa bàn, tôi có được trường hợp một người đàn ông mỗi sáng ra phải uống một cốc rượu. Sau một thời gian Vinh xuống, trực tiếp ở cùng ông ấy từ hai đến ba ngày để làm mọi cách giúp người ông ấy dần dần nghĩ lại.

"Tầu tiên là không uống rượu vào buổi sáng, sau đó thêm không uống rượu vào buổi trưa và cuối cùng là vào buổi tối. Anh ấy đã phát hiện ra rằng việc không uống rượu sẽ hơn, tốt hơn, năng suất công việc cao hơn và vợ con không phải chịu đựng nhiều hơn nữa. Sau đợt không uống rượu đầu tiên, Vàng Văn Vinh kể rằng cô con mới khen mình vì cô ấy đã không nói được bao năm nay, không nói được mà cô ấy lại làm được. "Bà con chỉ cần có một con gà hoặc một miếng ngon là gọi ngay cho tôi; từ đó, uy tín của tôi cũng rất cao. Vàng Văn Vinh kể.

Thượng úy Vàng Văn Vinh khẳng định rằng tất cả ngôn ngữ đều phải được học một cách tự nhiên, không phải tự nhiên mà có. Hồ Chí Minh thường xuyên nhen lên ngọn lửa đam mê học tập của anh ấy bởi một tấm gương sáng ngời: "Tố chất một phần, chịu khó và đam mê nhiệt huyết mới là chính. Mỗi tháng đều có chuyên đề học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức Hồ Chí Minh và tôi cũng đã xem rất nhiều phóng sự khi Bác Hồ trả lời các phóng viên quốc tế bằng tiếng nước ngoài. Ngay cả khi Bác ở vùng đồng bào thiểu số, Bác cũng thường xuyên tự học tiếng đồng bào, đó cũng là động lực để mình nhiệt huyết và đam mê hơn. Bác không chỉ học tiếng nước ngoài./.

Cập nhật tin tức công nghệ mới nhất tại fanpage Công nghệ & Cuộc sống

Nguồn tin:

 

Tham gia bình luận