Làm chủ công nghiệp quốc phòng, hiện đại hóa vũ khí | Báo Công Thương

Làm chủ công nghiệp quốc phòng, hiện đại hóa vũ khí | Báo Công Thương

Bài 1: Nên "sửa sang giáo mác" để phòng việc bất ngờ Đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng, gắn kết trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia

Nói công nghiệp quốc phòng mạnh có nghĩa là một quốc gia có nền công nghiệp vững chắc và một thực lực quốc gia mạnh mẽ. Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng, một số tập đoàn mạnh như Tập đoàn Công nghiệp-Viễn thông Quân đội (Viettel) vững mạnh, những người làm công nghiệp quốc phòng phải luôn sáng tạo, biết đột phá vào các lĩnh vực khoa học quan trọng, cũng như có văn hóa quản lý tiên tiến, đậm chất nhân văn, quy tụ lòng người, tạo ra sức bật mới cho ngành công nghiệp quốc phòng. Điều này có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những kinh nghiệm, cách làm của nhiều nhà máy, viện nghiên cứu và các tổ chức liên quan ở Tổng cục Công nghiệp quốc phòng, cũng như ở Tập đoàn Công nghiệp - Viễn Thông Quân đội (Viettel), cho thấy hướng đi đúng đắn này. Phản bác quan điểm cho rằng sản xuất quốc phòng làm cho đất nước nghèo đi. Các doanh nghiệp quân đội thiếu hiểu biết về cách quản lý cơ sở vật chất, làm kinh tế hay phát triển khoa học công nghệ.

Quan điểm của Đảng ta về bảo vệ tổ quốc từ sớm, từ xa

Không thể tồn tại và phát triển nếu không đổi mới liên tục.

Công nghiệp quốc phòng đã đạt được những kết quả quan trọng trong thời gian qua, sản phẩm công nghiệp quốc phòng ngày càng đa dạng, lưỡng dụng, bảo đảm chất lượng, góp phần tự chủ bảo đảm vũ khí trang bị, từng bước hiện đại hóa quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, đóng góp tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng quân đội.

Các yêu cầu cấp thiết về công nghiệp quốc phòng của các quốc gia, trong đó có nước ta, sẽ được đặt ra trong thời gian tới, dự báo tình hình thế giới, khu vực sẽ biến đổi nhanh chóng, phức tạp và khó lường. Trong nước, kinh tế - xã hội tiếp tục ổn định và phát triển, nhưng vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức; nhu cầu phát triển công nghiệp quốc phòng ngày càng tăng để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.

Trong bối cảnh đó, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 26/1/2022 của Bộ Chính trị XIII về "Đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo" thể hiện sự quan tâm sâu sắc, sự kỳ vọng và tin tưởng của Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với ngành công nghiệp quốc phòng, cụ thể hóa mục tiêu xây dựng quân đội đến năm 2025 cơ bản, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đồng thời góp phần thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả.

Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, ngành có liên quan tiếp tục hoàn thiện tổ chức bộ máy, tổ chức lại các cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt, tiến tới thành lập tổ hợp công nghiệp quốc phòng bảo đảm tinh, gọn, hiệu quả, tiên tiến, hiện đại; xây dựng hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật liên quan; xây dựng các cơ chế, chính sách đặc biệt để thu hút, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; và nguồn lực tài chính, khoa học công nghệ cho phát triển công nghiệp quốc phòng. Coi trọng kết hợp xây dựng, phát triển công nghiệp trong chiến lược phát triển, xây dựng công nghiệp quốc gia. Xây dựng và thực hiện tốt cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương về phát triển công nghiệp quốc gia. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, tổ chức thực hiện có hiệu quả các hình thức hợp tác, chuyển giao công nghệ, ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ.

Lãnh đạo các bộ, ngành và các địa phương về cơ bản hiện nay đã nắm vững, hiểu sâu, thực hiện đúng, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 08; tạo sự chuyển biến mạnh về nhận thức, thống nhất cao ý chí và hành động để phát triển công nghiệp quốc phòng gắn kết chặt chẽ và trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia, đủ sức mạnh, tiềm lực, khả năng phục vụ có hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng của đất nước trong giai đoạn mới, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, như Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra.

Trong chuyến khảo sát của phóng viên tại Viện Hàng không vũ trụ (HKVT) Viettel, trực thuộc Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội, nơi được tổ chức để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, sản xuất trang thiết bị kỹ thuật quân sự công nghệ cao theo yêu cầu, nhiệm vụ Bộ Quốc phòng giao, chúng tôi nhận thấy rằng nghị quyết đã đi đến từng cán bộ, kỹ sư và nghiên cứu viên. Phong trào thi đua tạo ra các sản phẩm công nghệ cao đã giúp chúng ta tiết kiệm hàng triệu đô la tiền mua sắm và tiết kiệm nguồn lực quốc gia, đặc biệt là khi chúng ta đã từng bước tiến lên làm chủ công nghệ hiện đại.

Năm năm qua đã chứng minh hướng đi hoàn toàn đúng đắn của chúng ta trong việc tự chủ các loại vũ khí CNC, được dự đoán sẽ trở thành vũ khí chủ lực trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Tin vui từ Viện Hàng không Vũ trụ Viettel (VTX) đã nghiên cứu, thiết kế và chế tạo thành công nhiều loại trang bị kỹ thuật quân sự công nghệ cao, đặc biệt là làm chủ các công nghệ lõi trong lĩnh vực HKVT đã chứng minh rằng đội ngũ sĩ quan ưu tú của Quân đội nhân dân Việt Nam hoàn toàn có thể làm chủ trong lĩnh vực công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam.

Với sức trẻ, sự nhiệt huyết, trình độ hiểu biết, đam mê sáng tạo và triết lý làm việc, các thành viên của viện đã phát triển thành văn hóa người Viettel "Làm việc khó, việc chưa ai làm", đã luôn tiên phong làm chủ lĩnh vực vũ khí công nghệ cao. Việc VTX chính thức được Văn phòng Sáng chế và Nhãn hiệu Hoa Kỳ (USPTO) cấp giấy chứng nhận bảo hộ độc quyền cho hai công trình trong lĩnh vực quang điện tử vào tháng 5 năm 2022 là bằng chứng sinh động nhất. Hai sáng chế quan trọng này hỗ trợ giải quyết bài toán tự nghiên cứu, thiết kế chế tạo, giảm bớt việc phụ thuộc nhập khẩu từ nước ngoài nhưng vẫn đáp ứng các điều kiện làm việc khắc nghiệt trong lĩnh vực quân sự.

Không chỉ có hai sáng kiến, số lượng các sáng chế của Viettel ngày càng tăng, bao trùm trên cả lĩnh vực quân sự và dân sự, khẳng định vị thế tiên phong trong lĩnh vực công nghệ cao của Viettel nói chung. Hiện tại, Viettel đã được cấp 56 bằng bảo hộ sáng chế ở Việt Nam, trong đó USPTO cấp 11 bằng ở Mỹ. Các sáng chế được bảo hộ độc quyền của Mỹ đã thể hiện năng lực tự chủ của Viettel trong việc phát triển các công nghệ quan trọng trong sản xuất và chế tạo công nghệ cao. VTX nói chung gặt hái được nhiều thành công khi đi lên từ nền tảng công nghệ cao vững chắc. Bằng chứng gần đây nhất là hai công trình thuộc lĩnh vực quân sự, quốc phòng của Viettel cũng đã được Hội đồng cấp Nhà nước xét tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh, giải thưởng nhà nước cao quý nhất về khoa học và công nghệ.

Nhiều người cho rằng sự thành công của Viettel là do công ty này có tài chính mạnh, có chính sách thu hút người tài, có văn hóa làm việc riêng biệt, có đãi ngộ tốt... tất cả đều đúng, nhưng chưa đủ. Những câu chuyện rất đơn giản mà chúng tôi gặp ở VTX đã chứng minh cho chúng tôi thấy rằng những thành tựu mà VTX, mà Viettel có được bắt nguồn từ việc luôn duy trì, thúc đẩy mạnh mẽ văn hóa đổi mới sáng tạo. Mỗi nhân viên ở VTX đã được đào tạo thành các kỹ sư có khả năng hiểu biết và làm chủ công nghệ cao, từ đó thúc đẩy các nghiên cứu và sáng chế vô cùng hữu hiệu.

Quay trở lại câu chuyện của các kỹ sư chúng tôi gặp tại VTX, chúng tôi nhận thấy rằng công nghệ là một lĩnh vực mới, đòi hỏi công nghệ và trình độ cao mà trên thế giới chưa có nhiều quốc gia thành công. Do tính bảo mật cao và các quốc gia không chuyển giao, việc tiếp cận công nghệ trong lĩnh vực này cũng không dễ dàng. Điều cốt lõi phải chọn được hướng đi đúng và cách làm phù hợp để đạt được thành công trong lĩnh vực đầy khó khăn và thử thách này. Viện HKVT Viettel đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, sản xuất các sản phẩm trang bị kỹ thuật quân sự công nghệ cao sau 5 năm thành lập với tinh thần chủ động, sáng tạo, tự lực, tự cường, vượt qua khó khăn, thử thách. Viện HKVTViettel đã hoàn thành nghiệm thu cấp Bộ Quốc phòng hai dòng sản phẩm chiến lược quan trọng vào năm 2021, tiến tới việc đưa chúng vào trang bị trong quân đội. Những phát hiện nói trên đã đánh dấu sự phát triển của ngành CNQP Việt Nam, điều cần thiết trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Làm chủ công nghệ để sản xuất vũ khí, thiết bị công nghệ cao và vũ khí

Kể từ khi thành lập đến nay, VTX đã triển khai thành công nhiều dự án quan trọng, trong đó có những lĩnh vực rất mới, khó và phức tạp đối với cả trong nước và trên thế giới. Việt Nam là một trong số rất ít các quốc gia trên thế giới có khả năng làm chủ các trang bị kỹ thuật và sản phẩm công nghiệp quốc phòng công nghệ cao trong lĩnh vực này vì nhiều dự án đã được nghiệm thu với những kết quả đột phá trong lĩnh vực hàng không vũ trụ. Viện HKVT Viettel (VTX) đã hoàn thành mở mới 32 nhiệm vụ khoa học công nghệ, nghiệm thu 16 nhiệm vụ khoa học kỹ thuật, phát triển gần 200 ý tưởng và sáng kiến để sử dụng trong sản xuất, kinh doanh và làm lợi cho quân đội nhiều tỷ đồng. VTX đã nộp đơn xin cấp bằng sáng chế và được Cục Sở hữu trí tuệ chấp thuận. Đặc biệt, đơn vị đã nộp đơn đăng ký bảo hộ gần 20 sáng chế tại cơ quan quản lý sáng chế và nhãn hiệu Hoa Kỳ và đã có sáng chế được cơ quan này công nhận.

Các cán bộ, kỹ sư của VTX đã phải làm việc không ít khó khăn để vừa tạo ra các sản phẩm chất lượng tốt nhất, tối ưu nhất, nhưng với chi phí phải thấp nhất, để có được bảng thành tích vẻ vang đó. Trong cuộc trò chuyện với Trung tá Hoàng Văn Đức, Trưởng phòng Chính trị VTX, Thiếu tá Bùi Văn Đồng (Trường phòng Cơ cấu chấp hành, Trung tâm kết cấu vật liệu); kỹ sư Tuấn Anh (Trưởng phòng, Trung tâm động cơ); kỹ sư Trần Anh Đức (Trưởng phòng). Mỗi năm, VTX cấp khoảng 500 sáng kiến cải tiến kỹ thuật kỹ thuật lớn, nhỏ, thuộc vào cơ quan sẽ thưởng từ vài trăm nghìn đến vài trăm triệu đô la cho mỗi sáng kiến được công nhận.

Theo Kỹ sư Tuấn Anh (Trưởng phòng, Trung tâm động cơ), đơn vị của ông gần đây cũng đã tạo ra một mô hình phòng thí nghiệm tiết kiệm ngân sách đáng kể cho cả quốc gia và quân đội. Đặc biệt, một động cơ sản phẩm của nước ngoài bán cho chúng ta chỉ được sử dụng một lần và khi thử nghiệm kết thúc, nó không thể tận dụng được nữa. Vì động cơ này có giá cao như vậy nên việc hoàn thiện và tối ưu hóa các tính năng sản phẩm cuối cùng đòi hỏi phải trải qua thử nghiệm nhiều lần với động cơ. Kỹ sư Tuấn Anh và các đồng nghiệp của ông đã quyết định tạo ra hệ thống mô phỏng hoạt động động cơ để động cơ có thể được thử nghiệm nhiều lần trong khi vẫn tuân thủ các thông số cho quá trình nghiên cứu, kiểm tra và thử nghiệm trên sản phẩm nói chung. Kỹ sư Tuấn Anh giải thích: Một sản phẩm hoàn thiện cần phải được lắp ghép từ một số bộ phận khác nhau. Các sản phẩm phải vượt qua các thử nghiệm lỗi và được sửa đổi cho phù hợp với các bộ phận khác nhau. Do đó, sự hoàn thiện của sản phẩm cuối cùng phụ thuộc vào việc phát triển các hệ thống mô phỏng nhằm lấy được các thông số của từng bộ phận trong sản phẩm.

Theo kỹ sư Tuấn Anh, chi phí của mỗi động cơ nhập khẩu nằm trong khoảng từ 7-8 tỷ đồng và để sản phẩm cuối cùng được sản xuất, riêng phần động cơ cũng phải trải qua vài chục lần thử nghiệm. Việc tổ chức được hệ thống mô phỏng giúp chúng ta giảm thời gian ra thực địa; giảm số động cơ phải mua, tiết kiệm hàng trăm tỷ đồng chi phí, đồng thời vẫn cho ra được thông số cuối cùng chính xác giúp tiết kiệm rất nhiều cho ngân sách và công sức của nhiều người. Tuy nhiên, kỹ sư Tuấn Anh cho biết, để đi đến thành công là không đơn giản và do thiếu kinh nghiệm nên kíp làm thí nghiệm thậm chí còn đối mặt với nguy hiểm trong lần thử đầu tiên.

Kỹ sư Trần Anh Đức giải thích thêm: Việc mô phỏng được đặt trong một quy trinh mô phỏng chung, theo đó mỗi sáng kiến đơn lẻ sau khi vận hành mô phỏng thành công sẽ được kết nối mô phỏng chung trong hệ thống tổng thể, giống như hoạt động của một sản phẩm thực tế, tương đương với một thử nghiệm thực tế. Hệ thống mô phỏng tổng thể và các phương pháp sáng tạo của kỹ sư VTX sẽ giả lập toàn bộ hoạt động của tất cả các thành phần của sản phẩm trong thực tế vận hành như thế nào. Chỉ khi sản phẩm trên hệ thống mô phỏng từng bộ phận, từng mô-đun hoàn thiện, hệ thống mô phỏng tổng thể mới đi vào hoạt động và chỉ khi hoạt động hoàn hảo, sản phẩm mới được mang ra thử nghiệm thực tế.

Kỹ sư Trần Anh Đức, người đã từng gặp thất bại, cho biết rằng trước khi có hệ thống mô phỏng, sau khi lắp ráp sản phẩm, hiệu chỉnh rồi, nhưng sản phẩm luôn không đạt được các thông số đề ra. Khi sản phẩm được đưa vào thử nghiệm, nó luôn ở trong tình trạng không chắc chắn về việc liệu nó có hoạt động như ý muốn hay không. Hoạt động thử nghiệm luôn đạt trên 90% yêu cầu đề ra khi hệ thống mô phỏng được triển khai. Tất cả các hệ thống thành phần của sản phẩm đều hoạt động tốt. Để dần dần hoàn thiện sản phẩm, những sai số nhỏ liên quan đến điều kiện môi trường cũng đã được tỉnh tới và mô phỏng về gió, thời tiết, khí hậu và các yếu tố chiến trường.

Theo đánh giá của các kỹ sư, đây là phương pháp nhanh nhất, hiệu quả nhất. Việc đo kiểm thực tế thông qua hệ thống mô phỏng giúp toàn bộ ê kíp nắm chắc các thông số kỹ thuật, từ đó kịp thời điều chỉnh, làm cho toàn bộ quy trình hoàn thiện sản phẩm đối với các thiết bị được rút ngắn. Theo Trung tá Hoàng Văn Đức, sản phẩm đã rút ngắn thời gian từ 5 đến 10 lần so với trước đó. Tiết kiệm nhân lực trong quá trình thử nghiệm. Giá trị của sản phẩm được đánh giá cao khi thông qua sản phẩm đã được hiểu chỉnh qua quá trình mô phỏng, đặc biệt khi thiết bị khi thử nghiệm thực tế rất khó để đo kiểm các thông số thực tế.

Trung tá Hoàng Văn Đức khẳng định rằng việc các phòng, ban chức năng thuộc VTX làm chủ được thiết kế hệ thống, tích hợp hệ thống và làm chủ các công nghệ lõi của sản phẩm, biết kết hợp với kinh nghiệm tác chiến của các đơn vị trong quân đội, giúp VTX cho ra đời các sản phẩm CNC với mức độ tự động hóa cao, đạt được các tiêu chuẩn của sản phẩm hàng không vũ trụ quốc tế đã cho thấy quá trình sáng tạo không ngừng của từng cá nhân, hướng đi tích cực của lãnh đạo VTX và lãnh đạo Tập đoàn. Theo Trung tá Hoàng Văn Đức, nước ngoài không bao giờ tư vấn cho chúng ta mở các hệ thống mô phỏng vì như thế họ sẽ không bán được nhiều sản phẩm. Do đó, các kỹ sư tự mày mò nghiên cứu là những người tạo ra các công trình sáng tạo cơ bản. Viện HKVT Viettel sử dụng hệ thống siêu máy tính để thiết kế từ dễ đến khó và sử dụng các công nghệ tiên tiến của thế giới như mô hình mô phỏng. Cách làm này vừa giúp tăng số lần thử nghiệm vừa giúp giảm chi phí.

Viện HKVT Viettel tiếp tục nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, sản xuất nhiều dòng sản phẩm mới tiên tiến, hiện đại đưa vào trang bị cho quân đội, phấn đấu trở thành hạt nhân nòng cốt trong tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao của Việt Nam trong những năm tới, phát huy những kết quả đã đạt được, với sự tin tưởng của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân Trung ương, Bộ Quốc phòng và khát khao chinh phục công nghệ.

Hoa Huyền
Bài 1: Nên "sửa sang giáo mác" để phòng việc bất ngờ Đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng, gắn kết trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia

Nói công nghiệp quốc phòng mạnh có nghĩa là một quốc gia có nền công nghiệp vững chắc và một thực lực quốc gia mạnh mẽ. Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng, một số tập đoàn mạnh như Tập đoàn Công nghiệp-Viễn thông Quân đội (Viettel) vững mạnh, những người làm công nghiệp quốc phòng phải luôn sáng tạo, biết đột phá vào các lĩnh vực khoa học quan trọng, cũng như có văn hóa quản lý tiên tiến, đậm chất nhân văn, quy tụ lòng người, tạo ra sức bật mới cho ngành công nghiệp quốc phòng. Điều này có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những kinh nghiệm, cách làm của nhiều nhà máy, viện nghiên cứu và các tổ chức liên quan ở Tổng cục Công nghiệp quốc phòng, cũng như ở Tập đoàn Công nghiệp - Viễn Thông Quân đội (Viettel), cho thấy hướng đi đúng đắn này. Phản bác quan điểm cho rằng sản xuất quốc phòng làm cho đất nước nghèo đi. Các doanh nghiệp quân đội thiếu hiểu biết về cách quản lý cơ sở vật chất, làm kinh tế hay phát triển khoa học công nghệ.

Quan điểm của Đảng ta về bảo vệ tổ quốc từ sớm, từ xa

Không thể tồn tại và phát triển nếu không đổi mới liên tục.

Công nghiệp quốc phòng đã đạt được những kết quả quan trọng trong thời gian qua, sản phẩm công nghiệp quốc phòng ngày càng đa dạng, lưỡng dụng, bảo đảm chất lượng, góp phần tự chủ bảo đảm vũ khí trang bị, từng bước hiện đại hóa quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, đóng góp tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng quân đội.

Các yêu cầu cấp thiết về công nghiệp quốc phòng của các quốc gia, trong đó có nước ta, sẽ được đặt ra trong thời gian tới, dự báo tình hình thế giới, khu vực sẽ biến đổi nhanh chóng, phức tạp và khó lường. Trong nước, kinh tế - xã hội tiếp tục ổn định và phát triển, nhưng vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức; nhu cầu phát triển công nghiệp quốc phòng ngày càng tăng để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.

Trong bối cảnh đó, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 26/1/2022 của Bộ Chính trị XIII về "Đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo" thể hiện sự quan tâm sâu sắc, sự kỳ vọng và tin tưởng của Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với ngành công nghiệp quốc phòng, cụ thể hóa mục tiêu xây dựng quân đội đến năm 2025 cơ bản, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đồng thời góp phần thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả.

Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, ngành có liên quan tiếp tục hoàn thiện tổ chức bộ máy, tổ chức lại các cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt, tiến tới thành lập tổ hợp công nghiệp quốc phòng bảo đảm tinh, gọn, hiệu quả, tiên tiến, hiện đại; xây dựng hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật liên quan; xây dựng các cơ chế, chính sách đặc biệt để thu hút, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; và nguồn lực tài chính, khoa học công nghệ cho phát triển công nghiệp quốc phòng. Coi trọng kết hợp xây dựng, phát triển công nghiệp trong chiến lược phát triển, xây dựng công nghiệp quốc gia. Xây dựng và thực hiện tốt cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương về phát triển công nghiệp quốc gia. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, tổ chức thực hiện có hiệu quả các hình thức hợp tác, chuyển giao công nghệ, ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ.

Lãnh đạo các bộ, ngành và các địa phương về cơ bản hiện nay đã nắm vững, hiểu sâu, thực hiện đúng, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 08; tạo sự chuyển biến mạnh về nhận thức, thống nhất cao ý chí và hành động để phát triển công nghiệp quốc phòng gắn kết chặt chẽ và trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia, đủ sức mạnh, tiềm lực, khả năng phục vụ có hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng của đất nước trong giai đoạn mới, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, như Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra.

Trong chuyến khảo sát của phóng viên tại Viện Hàng không vũ trụ (HKVT) Viettel, trực thuộc Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội, nơi được tổ chức để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, sản xuất trang thiết bị kỹ thuật quân sự công nghệ cao theo yêu cầu, nhiệm vụ Bộ Quốc phòng giao, chúng tôi nhận thấy rằng nghị quyết đã đi đến từng cán bộ, kỹ sư và nghiên cứu viên. Phong trào thi đua tạo ra các sản phẩm công nghệ cao đã giúp chúng ta tiết kiệm hàng triệu đô la tiền mua sắm và tiết kiệm nguồn lực quốc gia, đặc biệt là khi chúng ta đã từng bước tiến lên làm chủ công nghệ hiện đại.

Năm năm qua đã chứng minh hướng đi hoàn toàn đúng đắn của chúng ta trong việc tự chủ các loại vũ khí CNC, được dự đoán sẽ trở thành vũ khí chủ lực trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Tin vui từ Viện Hàng không Vũ trụ Viettel (VTX) đã nghiên cứu, thiết kế và chế tạo thành công nhiều loại trang bị kỹ thuật quân sự công nghệ cao, đặc biệt là làm chủ các công nghệ lõi trong lĩnh vực HKVT đã chứng minh rằng đội ngũ sĩ quan ưu tú của Quân đội nhân dân Việt Nam hoàn toàn có thể làm chủ trong lĩnh vực công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam.

Với sức trẻ, sự nhiệt huyết, trình độ hiểu biết, đam mê sáng tạo và triết lý làm việc, các thành viên của viện đã phát triển thành văn hóa người Viettel "Làm việc khó, việc chưa ai làm", đã luôn tiên phong làm chủ lĩnh vực vũ khí công nghệ cao. Việc VTX chính thức được Văn phòng Sáng chế và Nhãn hiệu Hoa Kỳ (USPTO) cấp giấy chứng nhận bảo hộ độc quyền cho hai công trình trong lĩnh vực quang điện tử vào tháng 5 năm 2022 là bằng chứng sinh động nhất. Hai sáng chế quan trọng này hỗ trợ giải quyết bài toán tự nghiên cứu, thiết kế chế tạo, giảm bớt việc phụ thuộc nhập khẩu từ nước ngoài nhưng vẫn đáp ứng các điều kiện làm việc khắc nghiệt trong lĩnh vực quân sự.

Không chỉ có hai sáng kiến, số lượng các sáng chế của Viettel ngày càng tăng, bao trùm trên cả lĩnh vực quân sự và dân sự, khẳng định vị thế tiên phong trong lĩnh vực công nghệ cao của Viettel nói chung. Hiện tại, Viettel đã được cấp 56 bằng bảo hộ sáng chế ở Việt Nam, trong đó USPTO cấp 11 bằng ở Mỹ. Các sáng chế được bảo hộ độc quyền của Mỹ đã thể hiện năng lực tự chủ của Viettel trong việc phát triển các công nghệ quan trọng trong sản xuất và chế tạo công nghệ cao. VTX nói chung gặt hái được nhiều thành công khi đi lên từ nền tảng công nghệ cao vững chắc. Bằng chứng gần đây nhất là hai công trình thuộc lĩnh vực quân sự, quốc phòng của Viettel cũng đã được Hội đồng cấp Nhà nước xét tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh, giải thưởng nhà nước cao quý nhất về khoa học và công nghệ.

Nhiều người cho rằng sự thành công của Viettel là do công ty này có tài chính mạnh, có chính sách thu hút người tài, có văn hóa làm việc riêng biệt, có đãi ngộ tốt... tất cả đều đúng, nhưng chưa đủ. Những câu chuyện rất đơn giản mà chúng tôi gặp ở VTX đã chứng minh cho chúng tôi thấy rằng những thành tựu mà VTX, mà Viettel có được bắt nguồn từ việc luôn duy trì, thúc đẩy mạnh mẽ văn hóa đổi mới sáng tạo. Mỗi nhân viên ở VTX đã được đào tạo thành các kỹ sư có khả năng hiểu biết và làm chủ công nghệ cao, từ đó thúc đẩy các nghiên cứu và sáng chế vô cùng hữu hiệu.

Quay trở lại câu chuyện của các kỹ sư chúng tôi gặp tại VTX, chúng tôi nhận thấy rằng công nghệ là một lĩnh vực mới, đòi hỏi công nghệ và trình độ cao mà trên thế giới chưa có nhiều quốc gia thành công. Do tính bảo mật cao và các quốc gia không chuyển giao, việc tiếp cận công nghệ trong lĩnh vực này cũng không dễ dàng. Điều cốt lõi phải chọn được hướng đi đúng và cách làm phù hợp để đạt được thành công trong lĩnh vực đầy khó khăn và thử thách này. Viện HKVT Viettel đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, sản xuất các sản phẩm trang bị kỹ thuật quân sự công nghệ cao sau 5 năm thành lập với tinh thần chủ động, sáng tạo, tự lực, tự cường, vượt qua khó khăn, thử thách. Viện HKVTViettel đã hoàn thành nghiệm thu cấp Bộ Quốc phòng hai dòng sản phẩm chiến lược quan trọng vào năm 2021, tiến tới việc đưa chúng vào trang bị trong quân đội. Những phát hiện nói trên đã đánh dấu sự phát triển của ngành CNQP Việt Nam, điều cần thiết trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Làm chủ công nghệ để sản xuất vũ khí, thiết bị công nghệ cao và vũ khí

Kể từ khi thành lập đến nay, VTX đã triển khai thành công nhiều dự án quan trọng, trong đó có những lĩnh vực rất mới, khó và phức tạp đối với cả trong nước và trên thế giới. Việt Nam là một trong số rất ít các quốc gia trên thế giới có khả năng làm chủ các trang bị kỹ thuật và sản phẩm công nghiệp quốc phòng công nghệ cao trong lĩnh vực này vì nhiều dự án đã được nghiệm thu với những kết quả đột phá trong lĩnh vực hàng không vũ trụ. Viện HKVT Viettel (VTX) đã hoàn thành mở mới 32 nhiệm vụ khoa học công nghệ, nghiệm thu 16 nhiệm vụ khoa học kỹ thuật, phát triển gần 200 ý tưởng và sáng kiến để sử dụng trong sản xuất, kinh doanh và làm lợi cho quân đội nhiều tỷ đồng. VTX đã nộp đơn xin cấp bằng sáng chế và được Cục Sở hữu trí tuệ chấp thuận. Đặc biệt, đơn vị đã nộp đơn đăng ký bảo hộ gần 20 sáng chế tại cơ quan quản lý sáng chế và nhãn hiệu Hoa Kỳ và đã có sáng chế được cơ quan này công nhận.

Các cán bộ, kỹ sư của VTX đã phải làm việc không ít khó khăn để vừa tạo ra các sản phẩm chất lượng tốt nhất, tối ưu nhất, nhưng với chi phí phải thấp nhất, để có được bảng thành tích vẻ vang đó. Trong cuộc trò chuyện với Trung tá Hoàng Văn Đức, Trưởng phòng Chính trị VTX, Thiếu tá Bùi Văn Đồng (Trường phòng Cơ cấu chấp hành, Trung tâm kết cấu vật liệu); kỹ sư Tuấn Anh (Trưởng phòng, Trung tâm động cơ); kỹ sư Trần Anh Đức (Trưởng phòng). Mỗi năm, VTX cấp khoảng 500 sáng kiến cải tiến kỹ thuật kỹ thuật lớn, nhỏ, thuộc vào cơ quan sẽ thưởng từ vài trăm nghìn đến vài trăm triệu đô la cho mỗi sáng kiến được công nhận.

Theo Kỹ sư Tuấn Anh (Trưởng phòng, Trung tâm động cơ), đơn vị của ông gần đây cũng đã tạo ra một mô hình phòng thí nghiệm tiết kiệm ngân sách đáng kể cho cả quốc gia và quân đội. Đặc biệt, một động cơ sản phẩm của nước ngoài bán cho chúng ta chỉ được sử dụng một lần và khi thử nghiệm kết thúc, nó không thể tận dụng được nữa. Vì động cơ này có giá cao như vậy nên việc hoàn thiện và tối ưu hóa các tính năng sản phẩm cuối cùng đòi hỏi phải trải qua thử nghiệm nhiều lần với động cơ. Kỹ sư Tuấn Anh và các đồng nghiệp của ông đã quyết định tạo ra hệ thống mô phỏng hoạt động động cơ để động cơ có thể được thử nghiệm nhiều lần trong khi vẫn tuân thủ các thông số cho quá trình nghiên cứu, kiểm tra và thử nghiệm trên sản phẩm nói chung. Kỹ sư Tuấn Anh giải thích: Một sản phẩm hoàn thiện cần phải được lắp ghép từ một số bộ phận khác nhau. Các sản phẩm phải vượt qua các thử nghiệm lỗi và được sửa đổi cho phù hợp với các bộ phận khác nhau. Do đó, sự hoàn thiện của sản phẩm cuối cùng phụ thuộc vào việc phát triển các hệ thống mô phỏng nhằm lấy được các thông số của từng bộ phận trong sản phẩm.

Theo kỹ sư Tuấn Anh, chi phí của mỗi động cơ nhập khẩu nằm trong khoảng từ 7-8 tỷ đồng và để sản phẩm cuối cùng được sản xuất, riêng phần động cơ cũng phải trải qua vài chục lần thử nghiệm. Việc tổ chức được hệ thống mô phỏng giúp chúng ta giảm thời gian ra thực địa; giảm số động cơ phải mua, tiết kiệm hàng trăm tỷ đồng chi phí, đồng thời vẫn cho ra được thông số cuối cùng chính xác giúp tiết kiệm rất nhiều cho ngân sách và công sức của nhiều người. Tuy nhiên, kỹ sư Tuấn Anh cho biết, để đi đến thành công là không đơn giản và do thiếu kinh nghiệm nên kíp làm thí nghiệm thậm chí còn đối mặt với nguy hiểm trong lần thử đầu tiên.

Kỹ sư Trần Anh Đức giải thích thêm: Việc mô phỏng được đặt trong một quy trinh mô phỏng chung, theo đó mỗi sáng kiến đơn lẻ sau khi vận hành mô phỏng thành công sẽ được kết nối mô phỏng chung trong hệ thống tổng thể, giống như hoạt động của một sản phẩm thực tế, tương đương với một thử nghiệm thực tế. Hệ thống mô phỏng tổng thể và các phương pháp sáng tạo của kỹ sư VTX sẽ giả lập toàn bộ hoạt động của tất cả các thành phần của sản phẩm trong thực tế vận hành như thế nào. Chỉ khi sản phẩm trên hệ thống mô phỏng từng bộ phận, từng mô-đun hoàn thiện, hệ thống mô phỏng tổng thể mới đi vào hoạt động và chỉ khi hoạt động hoàn hảo, sản phẩm mới được mang ra thử nghiệm thực tế.

Kỹ sư Trần Anh Đức, người đã từng gặp thất bại, cho biết rằng trước khi có hệ thống mô phỏng, sau khi lắp ráp sản phẩm, hiệu chỉnh rồi, nhưng sản phẩm luôn không đạt được các thông số đề ra. Khi sản phẩm được đưa vào thử nghiệm, nó luôn ở trong tình trạng không chắc chắn về việc liệu nó có hoạt động như ý muốn hay không. Hoạt động thử nghiệm luôn đạt trên 90% yêu cầu đề ra khi hệ thống mô phỏng được triển khai. Tất cả các hệ thống thành phần của sản phẩm đều hoạt động tốt. Để dần dần hoàn thiện sản phẩm, những sai số nhỏ liên quan đến điều kiện môi trường cũng đã được tỉnh tới và mô phỏng về gió, thời tiết, khí hậu và các yếu tố chiến trường.

Theo đánh giá của các kỹ sư, đây là phương pháp nhanh nhất, hiệu quả nhất. Việc đo kiểm thực tế thông qua hệ thống mô phỏng giúp toàn bộ ê kíp nắm chắc các thông số kỹ thuật, từ đó kịp thời điều chỉnh, làm cho toàn bộ quy trình hoàn thiện sản phẩm đối với các thiết bị được rút ngắn. Theo Trung tá Hoàng Văn Đức, sản phẩm đã rút ngắn thời gian từ 5 đến 10 lần so với trước đó. Tiết kiệm nhân lực trong quá trình thử nghiệm. Giá trị của sản phẩm được đánh giá cao khi thông qua sản phẩm đã được hiểu chỉnh qua quá trình mô phỏng, đặc biệt khi thiết bị khi thử nghiệm thực tế rất khó để đo kiểm các thông số thực tế.

Trung tá Hoàng Văn Đức khẳng định rằng việc các phòng, ban chức năng thuộc VTX làm chủ được thiết kế hệ thống, tích hợp hệ thống và làm chủ các công nghệ lõi của sản phẩm, biết kết hợp với kinh nghiệm tác chiến của các đơn vị trong quân đội, giúp VTX cho ra đời các sản phẩm CNC với mức độ tự động hóa cao, đạt được các tiêu chuẩn của sản phẩm hàng không vũ trụ quốc tế đã cho thấy quá trình sáng tạo không ngừng của từng cá nhân, hướng đi tích cực của lãnh đạo VTX và lãnh đạo Tập đoàn. Theo Trung tá Hoàng Văn Đức, nước ngoài không bao giờ tư vấn cho chúng ta mở các hệ thống mô phỏng vì như thế họ sẽ không bán được nhiều sản phẩm. Do đó, các kỹ sư tự mày mò nghiên cứu là những người tạo ra các công trình sáng tạo cơ bản. Viện HKVT Viettel sử dụng hệ thống siêu máy tính để thiết kế từ dễ đến khó và sử dụng các công nghệ tiên tiến của thế giới như mô hình mô phỏng. Cách làm này vừa giúp tăng số lần thử nghiệm vừa giúp giảm chi phí.

Viện HKVT Viettel tiếp tục nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, sản xuất nhiều dòng sản phẩm mới tiên tiến, hiện đại đưa vào trang bị cho quân đội, phấn đấu trở thành hạt nhân nòng cốt trong tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao của Việt Nam trong những năm tới, phát huy những kết quả đã đạt được, với sự tin tưởng của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân Trung ương, Bộ Quốc phòng và khát khao chinh phục công nghệ.

Cập nhật tin tức công nghệ mới nhất tại fanpage Công nghệ & Cuộc sống

Nguồn tin:

 

Tham gia bình luận