Lớp Seawolf
Kế thừa lớp Los Angeles, Seawolf là lớp tàu ngầm tấn công nhanh chạy bằng năng lượng hạt nhân (SSN) đang phục vụ trong Hải quân Mỹ. Người Mỹ tạo ra Seawolf nhằm mục đích chống lại mối đe dọa từ các tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo tiên tiến của Liên Xô như lớp Typhoon và tàu ngầm tấn công như lớp Akula trong môi trường đại dương sâu. Chi phí của Seawolf được đánh giá là quá cao và chương trình đã bị cắt giảm để dồn kinh phí cho tàu ngầm tấn công mới lớp Virginia nhỏ hơn và rẻ hơn.

Chiếc đầu tiên SSN-21 được đưa vào hoạt động ngày 19/7/1997, mạnh hơn đáng kể so với bất kỳ tàu ngầm nào khác. Đó là một tàu ngầm có tốc độ cao và cực kỳ yên lặng, được trang bị một số hệ thống vũ khí và các cảm biến rất tiên tiến. Seawolf không mang bất kỳ Hệ thống phóng thẳng đứng (VLS) vốn là trang bị tiêu chuẩn cho hầu hết các tàu ngầm tấn công. Nó có 8 ống phóng ngư lôi 660 mm và có không gian chứa tới 50 ngư lôi trong khoang chứa.
Chiếc thứ hai, USS Connecticut SSN-22 được đưa vào sử dụng tháng 12/1998, có cùng cấu hình với SSN-21. Cả hai là những tàu ngầm đắt nhất được chế tạo cho đến nay, đứng sau tàu ngầm lớp Triomphant của Pháp. Tàu thứ ba, USS Jimmy Carter SSN-23, được đưa vào sử dụng tháng 2/2005, có phần mở rộng thân tàu dài 30 m là nền tảng đa nhiệm vụ (MMP). Không gian MMP được tạo ra bằng cách chèn thêm một phần Giao diện đại dương (OI), được General Dynamics thiết kế và lắp đặt.
Những tính năng vượt trội
Không gian bổ sung này được sử dụng cho nhiều nhiệm vụ đặc biệt khác nhau và các thiết bị cần thiết để hỗ trợ chúng. Tàu ngầm này đã được trao tặng giải thưởng cho các hoạt động được thực hiện trong khung thời gian 2011-2012 nhưng thông tin cụ thể về các nhiệm vụ đó vẫn được giữ kín. Seawolf được lắp đặt lớp vỏ cách âm, có lượng giãn nước khi lặn 9.137 tấn (12.139 tấn đối với Jimmy Carter) và 8.060 tấn khi nổi.
Nó có tốc độ tối đa 35 km/h khi lặn và tốc độ 'im lặng' là 20 km/h; thủy thủ đoàn 116 người, bao gồm 15 sĩ quan. Với độ sâu lặn 610 m, nó được thiết kế với khả năng hoạt động dưới băng với các cánh mũi có thể thu vào. Hệ thống dữ liệu chiến đấu Lockheed Martin BSY-2 với mạng lưới 70 bộ xử lý 68030 Motorola đã được thay thế bằng hệ thống chiến đấu Raytheon AN/BYG-1; Hệ thống kiểm soát hỏa lực Raytheon mk2 kiểm soát vũ khí.
Tàu ngầm được trang bị tên lửa Tomahawk cả phiên bản tấn công trên bộ và chống hạm. Tên lửa Tomahawk tấn công trên bộ của Raytheon có tầm bắn 2.500 km. Hệ thống dẫn đường quán tính hỗ trợ Tercom (TAINS) dẫn đường tên lửa đến mục tiêu, bay với tốc độ dưới âm thanh ở độ cao từ 20 m đến 100 m. Tomahawk có thể được trang bị đầu đạn hạt nhân, mặc dù thông thường không được mang theo. Tên lửa chống hạm Tomahawk được dẫn đường quán tính và đầu tự dẫn radar chủ động và chống bức xạ có tầm bắn lên tới 450 km.
Vụ phóng dưới nước đầu tiên của tên lửa Raytheon Tactical Tomahawk block IV diễn ra vào tháng 11/2002. Block IV bao gồm một liên kết vệ tinh hai chiều cho phép lập trình lại tên lửa trong khi bay và truyền hình ảnh về báo thiệt hại trong trận chiến (BDI). Tên lửa đã được đưa vào sử dụng trên các tàu nổi của Hải quân Mỹ tháng 9/2004. Lớp Seawolf cũng mang tên lửa chống hạm Harpoon của Boeing. Sub-harpoon sử dụng radar chủ động dẫn đường để phóng đầu đạn 225 kg với tầm bắn 130 km và tốc độ cận âm cao.
Ngư lôi Gould mk48 ADCAP với đầu đạn 267 kg có thể chống lại cả tàu nổi hiệu suất cao và tàu ngầm lặn sâu nhanh tầm bắn 50 km (chủ động) và 38 km (thụ động). Nó có khả năng hoạt động có hoặc không có dây dẫn và sử dụng cả dẫn đường chủ động và thụ động. Các biện pháp đối phó bao gồm hệ thống mồi bẫy ngư lôi Northrop Grumman WLY-1 và hệ thống đối phó điện tử (ECM) GTE WLQ-4(V)1.
Bộ sonar của tàu ngầm BQQ 5D với các mảng chủ động/thụ động ở mũi tàu và các mảng thụ động bên hông. Ngoài ra tàu còn gắn các mảng giám sát TB-16 và mảng kéo chiến thuật TB-29, sẽ được thay thế bằng mảng kéo mỏng TB-29A do Lockheed Martin phát triển và sonar chủ động BQS 24 để phát hiện tầm gần. Các tàu ngầm Seawolf đã được nâng cấp với hệ thống xử lý sonar Lockheed Martin AN/BQQ-10(V4). Radar BPS 16 hoạt động ở băng tần I được trang bị để dẫn đường.
Seawolf dùng hệ thống lò phản ứng GE PWR S6W, hai tua-bin công suất định mức 52.000 mã lực (38,8 MW), một động cơ đẩy một trục đơn và một động cơ ngầm đẩy phụ. Lớp Seawolf có giá khoảng 3 tỷ USD một chiếc (3,5 tỷ USD cho USS Jimmy Carter). Thân tàu lớp Seawolf được chế tạo từ thép HY-100, loại thép này bền hơn thép HY-80 được sử dụng trong các lớp trước, để chịu được áp suất nước ở độ sâu lớn hơn.
Tàu ngầm lớp Seawolf lớn hơn, nhanh hơn và êm hơn đáng kể so với tàu ngầm lớp Los Angeles trước đây; chúng cũng mang nhiều vũ khí hơn và có số ống phóng ngư lôi gấp đôi. Các tàu có thể mang tới 50 tên lửa hành trình UGM-109 Tomahawk để tấn công các mục tiêu trên đất liền và trên mặt biển. Các tàu cũng có thiết bị mở rộng để hoạt động ở vùng nước nông.
Cập nhật tin tức công nghệ mới nhất tại fanpage Công nghệ & Cuộc sống
Nguồn tin: vov.vn
Tham gia bình luận