Theo phát hiện này, người tiêu dùng ở châu Á - Thái Bình Dương là những người hào hứng nhất trên thế giới khi nói đến cách AI có thể cải thiện sản phẩm và dịch vụ, với tỷ lệ gần gấp ba lần so với các khu vực khác, chẳng hạn như Mỹ và châu Âu.
Tuy nhiên, báo cáo cho thấy việc triển khai generative AI trong kinh doanh chính thức đã chậm hơn, chỉ có 4 trong số 10 thương hiệu châu Á - Thái Bình Dương áp dụng công nghệ này, dù mức độ chấp nhận cao từ các nhân viên.
Generative AI là một loại trí tuệ nhân tạo được lập trình để tự động tạo ra nội dung mới, như văn bản, hình ảnh, âm thanh và video. Nó khác với các hệ thống AI khác như máy học sâu (deep learning) hoặc học máy (machine learning) trong việc dự đoán kết quả từ dữ liệu đã có sẵn. Thay vì dựa trên dữ liệu huấn luyện, hệ thống generative AI có khả năng tự tạo ra dữ liệu mới và phong phú hơn.
Tony Ng, Giám đốc điều hành Adobe khu vực Đại Trung Quốc (Trung Quốc đại lục, Hồng Kông, Ma Cao và Đài Loan), cho biết trong một tuyên bố về những phát hiện trên: “Như đã chỉ ra trong cuộc khảo sát, có sự đồng thuận rằng công nghệ generative AI sẽ đóng vai trò lớn hơn trong việc cải thiện năng suất của nhân viên và trải nghiệm của khách hàng”.
Điều này phù hợp với mục tiêu của hơn một nửa số người tham gia khảo sát thương hiệu ở châu Á - Thái Bình Dương, đang tìm cách nâng cao hiệu quả kinh doanh thông qua quy trình làm việc và các giải pháp công nghệ generative AI.
“Tuy nhiên, các công ty muốn áp dụng generative AI cần phải xây dựng rõ ràng các chính sách sử dụng cũng như cơ chế giám sát và quản lý để tránh những rủi ro tiềm ẩn”, Tony Ng nói.
Bất chấp sự cường điệu và phấn khích xung quanh generative AI, có thể được sử dụng để tạo các chatbot trò chuyện thông minh, văn bản, hình ảnh hoặc nội dung đa phương tiện khác, các chuyên gia trong lĩnh vực tiếp thị và ngành khác đã bày tỏ lo ngại về những rủi ro liên quan đến vấn đề bản quyền và quyền riêng tư dữ liệu.
Nghiên cứu của Adobe cho thấy rõ sự quan tâm của người tiêu dùng với generative AI, nhưng nó cũng chỉ ra rằng trong môi trường kinh tế đầy thách thức, niềm tin thương hiệu là yếu tố quyết định chính đến chi tiêu của người tiêu dùng. Yếu tố số một trong việc xây dựng lòng trung thành của người tiêu dùng được cho là khả năng của công ty trong việc giữ dữ liệu an toàn và sử dụng dữ liệu phù hợp với mong đợi từ khách hàng.
Thế nhưng, bất kể các rủi ro mà các công ty nhận thấy là gì, cuộc khảo sát của Adobe cho thấy 90% nhân viên tiếp thị và dịch vụ khách hàng toàn cầu đang sử dụng generative AI, bao gồm 42% đã sử dụng mô hình ngôn ngữ lớn hoặc AI đàm thoại, 25% sử dụng tính năng chuyển văn bản thành hình ảnh và 23% sử dụng cả hai.
Nghiên cứu được thực hiện bởi công ty nghiên cứu thị trường Advanis và khảo sát hơn 15.000 người tiêu dùng, 4.000 chuyên gia tiếp thị và trải nghiệm khách hàng trên toàn cầu. Trung Quốc, quốc gia đưa ra một số quy định khắt khe nhất thế giới về AI, không được đưa vào danh sách nghiên cứu.
Bất chấp những trở ngại trong việc áp dụng generative AI, Adobe dự báo rằng các doanh nghiệp sẽ tiếp tục triển khai thành công các dự án với công nghệ này, ước tính tỷ lệ áp dụng là 68% trong 4 tháng tới và 87% trong năm tới.
Theo dự báo của công ty Forrester Research vào tháng trước, 79 tỉ USD sẽ được chi hàng năm cho các ứng dụng chuyên biệt để cải thiện tự động hóa và tăng năng suất trong các ngành như an ninh, y tế và tiếp thị nội dung vào năm 2023.
Theo nghiên cứu từ Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), cơ quan thuộc Liên Hợp Quốc, generative AI có thể không đảm nhận hoàn toàn công việc của hầu hết mọi người mà thay vào đó sẽ tự động hóa một phần nhiệm vụ cho họ.
Nghiên cứu cảnh báo rằng công việc văn phòng có thể bị ảnh hưởng nặng nề nhất, tác động tới việc làm của nhiều phụ nữ, vì phái yếu chiếm tỷ lệ lớn trong ngành này, đặc biệt là ở các nước giàu.
Tại các nước giàu, 21 triệu việc làm do phụ nữ nắm giữ có khả năng được tự động hóa. Trong khi gần 3% công việc do nam giới nắm giữ ở nước giàu có nguy cơ bị tự động hóa.
Trong bối cảnh lo ngại ngày càng tăng trong các lĩnh vực bị thay thế bởi AI, nghiên cứu mới của ILO cho thấy các nhân viên hành chính và phụ nữ phải đối mặt với nguy cơ công việc bị thay thế bởi công nghệ.
Theo nghiên cứu, tác động của tự động hóa là "có tính chất giới tính cao”. Cụ thể là tỷ lệ phụ nữ có khả năng bị ảnh hưởng bởi tự động hóa cao hơn nhiều so với nam giới.
Ở các nước giàu, 7,8% công việc do phụ nữ đảm nhiệm có khả năng được tự động hóa, với con số mà ILO ước tính là khoảng 21 triệu người.
Ngược lại, 2,9% công việc do nam giới nắm giữ ở các nước giàu (khoảng 9 triệu người) phải đối mặt với khả năng bị tự động hóa.
Nhân viên hỗ trợ công việc hành chính cũng đối mặt với nguy cơ bị ảnh hưởng bởi AI lớn nhất. Khoảng 1/4 nhiệm vụ của nhân viên văn phòng đối mặt nguy cơ cao bị tự động hóa khi tiếp xúc với generative AI và 58% nhiệm vụ của họ phải đối mặt nguy cơ trung bình khi tiếp xúc với công nghệ này.
Nghiên cứu đã liệt kê các công việc như nhân viên đánh máy, tư vấn du lịch, người ghi chép, nhân viên thông tin trung tâm liên lạc, giao dịch viên ngân hàng, người phỏng vấn khảo sát và nghiên cứu thị trường có thể sẽ bị tự động hóa trong tương lai. Song nhìn chung, hầu hết các nhiệm vụ của người lao động không gặp rủi ro lớn từ AI, theo nghiên cứu.
Ví dụ, nghiên cứu cho thấy chỉ 4% nhiệm vụ của nhân viên dịch vụ và bán hàng phải đối mặt nguy cơ cao bị tự động hóa khi tiếp xúc với generative AI và 18% nhiệm vụ của họ phải đối mặt nguy cơ trung bình. “Vì vậy, tác động lớn nhất của công nghệ này có thể không phải phá hủy việc làm mà là những thay đổi tiềm ẩn với chất lượng công việc, đặc biệt là cường độ làm việc và quyền tự chủ”, trích nội dung nghiên cứu.
Nghiên cứu đã sử dụng GPT-4, mô hình ngôn ngữ lớn mới nhất của OpenAI làm nền tảng cho ChatGPT, để dự đoán cách các công việc có thể được tự động hóa.
Ngoài ra, ILO bổ sung vào các nghiên cứu trước đây về cách AI có thể thay thế công việc.
Cập nhật tin tức công nghệ mới nhất tại fanpage Công nghệ & Cuộc sống
Nguồn tin: 1thegioi.vn
Tham gia bình luận