Trong chiến tranh đồng bào S'tiêng bản địa, nơi đây ngày đêm giã gạo nuôi quân, sẵn sàng ăn củ rừng để nhường gạo, nấu ăn bằng nước lọc từ tro cỏ tranh để nhường muối cho bộ đội, là một hậu phương vững chắc của cách mạng. Nhạc sĩ Xuân Hồng đã viết ca khúc "Tiếng chày trên Sóc Bom Bo" để đáp lại tấm lòng yêu nước đó và đã đi vào lòng người của bao thế hệ người Việt.
Đến thăm sóc Bom Bo tháng Tư này, du khách có cơ hội nghe già làng kể chuyện, thưởng thức các điệu múa, tiếng cồng và chiêng của người S'tiêng khi ánh nắng bập bùng. Đặc biệt, du khách được thưởng thức cơm lam, rượu cần, canh thụt, canh bồi, lá nhíp xào đọt mây rừng, v.v. do chính người dân bản địa S'tiêng chế biến.

Một lòng theo cách mạng
Sóc Bom Bo, nay là thôn Bom Bo, xã Bình Minh, huyện Bù Đăng, nằm cách thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước khoảng 50 km theo Quốc lộ 14 hướng về huyện Bù Đăng. Tiếp chúng tôi, già làng sóc Bom Bo Điểu Lên, tên thân mật là Già Lên, đồng bào S'tiêng cho biết trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, người dân S'tiêng của Sóc Bom Bo đã đóng góp rất lớn vào sức người và sức của nhân dân ta cho cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ của nhân dân ta.
Người dân ở vùng đất Bom Bo thường xuyên có lệ giã gạo mỗi đêm để làm lương cho gia đình ngày hôm sau. Tuy nhiên, cuộc kháng chiến chống Mỹ của quân và dân ta đang bước vào thời kỳ cam go, quyết liệt, khi bộ đội đang thiếu thốn, khó khăn về mọi mặt. Đồng bào S'tiêng sóc Bom Bo đã đưa ra khẩu hiệu "Toàn sóc Bom Bo giã gạo nuôi quân", không phân biệt già trẻ, gái trai đồng lòng tập trung giã gạo phục vụ bộ đội, phục vụ cách mạng, với tinh thần yêu nước, một lòng theo Đảng. Bài hát "Tiếng chày trên Sóc Bom Bo" được viết bởi nhạc sĩ Xuân Hồng, xuất phát từ tấm lòng yêu nước, đã ăn sâu vào tâm trí của tất cả những người con đất Việt. Từ đó đến nay, địa danh sóc Bom Bo đã trở thành dấu son chói sáng trong lịch sử cách mạng và phong trào giải phóng dân tộc, ghi dấu ấn trong lòng người dân cả nước.

Chiến sĩ du kích, một trong những anh hùng thời kháng chiến chống Mỹ, già làng Điểu Lên, hiện 78 tuổi, nhớ lại những năm đầu thập niên 1960: "Những năm đầu thập niên 1960, Mỹ - Ngụy liên tục càn phá, muốn đẩy dân vào ấp chiến lược để tiêu diệt cách mạng, muốn cắt đứt mối dây liên hệ của họ với cách mạng. Cả Sóc Bom Bo đều không chịu chấp nhận ấp chiến lược, như đã thấy. Khi quân địch vây bắt và khủng bố liên miên vào khoảng năm 1963, cả già và gái của vài chục hộ dân sóc Bom Bo đã âm thầm băng rừng vượt suối vào căn cứ Nửa Lon để theo cách mạng. Bà con bắt tay vào vừa xây dựng lán trại vừa sản xuất vừa đánh giặc trên vùng đất mới. Thanh niên thì tham gia vào bộ đội, đi du kích, làm giao liên, còn phụ nữ và trẻ em thì ngày đêm giã gạo nuôi quân.
Lịch sử của "Tiếng chày trên sóc Bom Bo"
Khi cha cô còn sống (nhạc sĩ qua đời năm 1996), bà Nguyễn Hồng Loan, hiện 62 tuổi, con gái út của cố nhạc sĩ Xuân Hồng, trước đây công tác ở Hội âm nhạc TP.HCM, đã nghỉ hưu, thường được cha kể về những năm tháng tham gia chiến tranh và những sáng tác của ông, đặc biệt là nhạc phẩm "Tiếng chày trên sóc Bom Bo".

Ý tưởng sáng tác Tiếng chày trên sóc Bom Bo được nhạc sĩ Xuân Hồng ấp ủ trong một thời gian dài, bắt nguồn từ những câu chuyện cha bà kể lại và cuốn Nhạc và Cuộc đời của cha mà bà đã đọc như thuộc làu. Nhạc sĩ Xuân Hồng đã tham gia sinh hoạt giã gạo ở nông thôn ngay từ khi còn là một cậu bé chưa thể cầm nổi cái chày giã gạo cho đến khi trái tim bắt đầu rung động. Anh ấy chưa bao giờ từ bỏ mong muốn viết một bài hát về tiếng chày giã gạo vì những ký ức đáng yêu của thời trai trẻ đã theo anh ấy đến tận chiến trường.
Nhạc sĩ Xuân Hồng được đơn vị điều đến sóc Bom Bo để nhận gạo trong một dịp tham gia chiến dịch Đồng Xoài. Vùng đất Bom Bo, con người Bom Bo, chỉ mới là một vài điều thoáng qua trong tâm trí của nhạc sĩ khi anh ấy đến lần đầu tiên. Sau đó, nhạc sĩ Xuân Hồng đã có nhiều lần trở lại nơi đây. "Tôi được cha tôi kể lại rằng sóc Bom Bo ngày ấy là một đơn vị hậu phương vững chắc, tập quán của sóc là giã gạo ngày nào ăn ngày nấy và đó là công việc của phụ nữ. Một số vị cao trong sóc đã đưa ra khẩu hiệu mang tính cách mạng: Toàn sóc Bom Bo giã gạo đúng lúc bộ đội thiếu gạo. Âm hưởng của tiếng chày giã gạo, cùng với những rung động của thời trai trẻ, khơi nguồn cảm xúc cho tiết tấu, nhạc điệu của Tiếng chày trên sóc Bom Bo từ đó vang lên trong không gian lãng mạn mang màu sắc huyền thoại của ánh đuốc lồ ô bập bùng và tiếng chày cụp cum.

Sau nhiều lần đến và đi, ý tưởng dần dần nảy sinh vào năm 1962, lúc đó cha tôi bắt đầu viết. Khi viết, nó cũng được viết đi viết lại rất nhiều lần để tạo ra một bản nhạc. Bản nhạc phải được hoàn thành cơ bản vào năm 1965, nhưng đến tận năm 1966, nó mới được công chúng biết đến. Tiếng chày trên sóc Bom Bo ngay lập tức đã vượt ra ngoài thời gian và không gian khi nó được phát sóng trên Đài Phát thanh Giải phóng, trở thành một bản hùng ca thôi thúc quân dân địa phương đánh giặc. Theo bà Nguyễn Hồng Loan.
"Để sáng tác được tuyệt phẩm Tiếng chày trên sóc Bom Bo, cha tôi đã phải lao động miệt mài, phải sống cùng, ăn cùng, ở cùng, làm cùng và gắn bó đồng bào S'tiêng trong một thời gian rất dài, nhiều khi bị sốt rét rừng người xanh như tàu lá chuối tưởng chết. Tôi cũng đã từng đến một số lần đến sóc Bom Bo, và tôi nghĩ rằng người dân địa phương sẽ nhớ thương cha tôi như người con của bản làng và tin tưởng vào những kỳ vọng của họ rằng: “Người đi xa vắng rồi sẽ có ngày/”. Về đường này thăm sóc Bom Bo, bà Loan tâm sự.

Khát vọng vươn lên của bà con Bom Bo
Bà con Bom Bo cần cù lao động, chí thú làm ăn và khát vọng vươn lên trong cuộc sống. Anh Điểu Té, 35 tuổi, dồng bào S'tiêng, sinh ra và lớn lên ở Bom Bo là một trong những gia đình trẻ tiêu biểu có nền kinh tế khá vững chắc. Gia đình anh Điểu Té đã làm đơn đề nghị và được cấp một căn nhà trong khu bảo tồn vào năm 2017 sau khi anh Điểu Té lấy vợ ra riêng sống.
Ngoài cơ ngơi hơn 1,8ha vườn làm bằng cao su, điều, cà phê trồng đan xen hàng năm với thu nhập hàng trăm triệu đô la, vợ chồng anh Điểu Té còn tham gia làng nghề ẩm thực phục vụ du khách để kiếm thêm thu nhập. Khang trang của Khu bảo tồn văn hóa dân tộc S'tiêng sóc Bom Bo (gọi tắt là Khu bảo tồn) đã được xây dựng từ khi du khách đến tham quan ngày càng đông, biến công việc của hai vợ chồng trở nên tất bật suốt ngày đêm.
"Trước đây thì nhà cũng khó khăn, nơi đây cũng buồn, nhưng may Khu bảo tồn được xây dựng đã mang lại lợi ích cho thu nhập nhà tôi. Có tháng lời cả chục triệu đồng. Trước đây, nhà tôi đã nhận được 300 con gà ri giống để nuôi lớn bán cho khách tham quan. Sau khi được nhà nước cho gà, dạy cho cách nuôi, vợ chồng tôi đã quen lắm rồi. Gà lớn nhanh, không bị chết, không bị rù, giờ khách đến lúc nào khách đến cũng có gà bán, muốn thì vợ chồng tôi làm luôn cho họ ăn. Điểu Té vui mừng nói.
.jpg)
Tương tự, vợ chồng chị Điểu Thị Xia, 36 tuổi, sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Bom Bo oai hùng, là một trong những mẫu gia đình trẻ siêng năng chí thú làm ăn, có khát vọng vươn lên mãnh liệt và có cuộc sống ổn định trong Khu bảo tồn nhờ gắn bó với ngành nghề truyền thống của đồng bào S'tiêng mình. Ngay từ khi còn nhỏ, chị Thị Xia đã được thừa hưởng từ cha mẹ những nghề truyền thống mà đồng bào của cô ấy đã làm vì cô ấy là con của già làng Điểu Lên.
Với hàng chục năm kinh nghiệm, chị Thị Xia giờ đây có thể chế biến nhiều món ăn khác nhau theo khẩu vị của đồng bào để phục vụ du khách. "Từ khi Khu bảo tồn bắt đầu hoạt động, bà con Bom Bo đã có cuộc sống ổn định hơn. Bà con ở Bom Bo mong muốn khách đến với Bom Bo nhiều hơn nữa để giúp bà con chúng tôi có thêm việc làm và có thêm thu nhập. Theo chị Thị Xia, "Sóc Bom Bo luôn chờ đợi mọi người đến chơi."
Ông Phạm Anh Tuấn, Phó giám đốc Ban quản lý Khu bảo tồn văn hóa dân tộc S'tiêng sóc Bom Bo, nói rằng để "tiếp sức" cho người dân Bom Bo, địa phương đã có nhiều chương trình, chính sách giúp người dân phát triển nông nghiệp như: giống, cây trồng, vật nuôi, khoa học kỹ thuật... vào sản xuất. Theo ông Phạm Anh Tuấn, huyện đã hỗ trợ miễn phí 18 hộ trong thời gian qua, bao gồm cả việc hỗ trợ heo giống và gà giống. 9 hộ được hỗ trợ gà ri giống (300 hộ/con), trong khi 9 hộ được hỗ trợ heo rừng lai (10 con/hộ).

Các hộ chỉ tự trả tiền cho chuồng trại, còn con giống, phương pháp chăm sóc và kỹ thuật nông nghiệp đều được cán bộ ngành nông nghiệp hỗ trợ miễn phí. Ngoài ra, 20 hộ được cấp đất trong khu vực lõi của Khu bảo tồn. Một hộ gia đình trẻ, am hiểu truyền thống văn hóa của đồng bào mình, có nền kinh tế ổn định là yêu cầu để được xem xét vào Khu bảo tồn. Kể từ khi các hộ gia đình này đến đây sinh sống, các ngành nghề truyền thống như đan lát, chế biến rượu cần, dệt thổ cầm, rèn... đã được vực dậy, góp phần bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào bản địa. Những nghề này cũng giúp bà con kiếm được nhiều tiền hơn.
Đến Bom Bo để thưởng thức cơm lam, rượu cần và các món ăn khác.
Du khách có thể hít thở bầu không khí trong lành, cảm giác như được trở lại quê hương yên bình khi đến thăm Bom Bo tháng Tư. Cuộc sống ấm no, đủ đầy như hôm nay là kết quả của việc đầu tư bài bản, căn cơ vào Khu bảo tồn trong những năm qua. Khu bảo tồn là nơi tái hiện không gian sinh sống truyền thống, giới thiệu các phong tục tín ngưỡng, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của đồng bào dân tộc S'tiêng. Khu bảo tồn đã tạo ra nhiều công ăn việc làm cho bà con địa phương và từ lợi ích thiết thực, bà con ngày càng tin tưởng vào chủ trương, chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước.

Khu bảo tồn hiện đang dần hoàn thiện, khang trang sau các giai đoạn đầu tư. Đến đây, du khách được tham quan, chiêm ngưỡng công trình với nhiều hạng mục đặc biệt, mang tính cách riêng của người S'tiêng bản địa, bao gồm Nhà dài truyền thống, điểm Trường Tiểu học Xuân Hồng, hệ thống đường giao thông, sân lễ hội, nhà đón tiếp và nhà lưu giữ làng nghề truyền thống. Các hiện vật như Nhà sinh hoạt cộng đồng, nhà bán hàng lưu niệm, bộ đàn đá kỷ lục Việt Nam nặng 20 tấn và bộ cồng chiêng lớn nhất Việt Nam gồm 6 chiêng, 5 cồng có đường kính 2,15 m, nặng 600 kg cũng có mặt.
Đến với sóc Bom Bo hôm nay, du khách có thể tận hưởng những giây phút thư giãn khi nghe già làng kể chuyện, xem các sơn nữ biểu diễn vũ điệu của người S'tiêng, trai làng múa cồng chiêng bên ánh lửa bập bùng và tham quan làng nghề truyền thống của người S 'tiêng như dệt thổ cẩm, rèn, đan lát và chế biến rượu cần. Đặc biệt thưởng thức cơm lam nấu ống tre, uống rượu cần, canh thụt, canh bồi, lá nhíp xào đọt mây rừng do chính người bản địa S'tiêng chế biến, hoặc mua sắm quà lưu niệm là những chiếc áo thổ cẩm, túi xách, gùi... do những phụ nữ S'tiêng tự tay thêu dệt, đan lát công phu sẽ giúp du khách trải qua những giây phút khó quên cho chuyến đi về miền sơn cước.
Sau khi tham quan, vui chơi giải trí hoặc thưởng thức ẩm thực, du khách có thể di chuyển đến khu bảo tồn ở khu vực lân cận như Minh Hưng hoặc Đức. "Du khách chỉ cần liên hệ đặt trước để được phục vụ nếu họ muốn được tiếp đón chu đáo. Theo ông Tuấn, khu bảo tồn có thể tổ chức tiệc một lúc cho hơn 200 khách.
Cập nhật tin tức công nghệ mới nhất tại fanpage Công nghệ & Cuộc sống
Nguồn tin: 1thegioi.vn
Tham gia bình luận