Những phát minh "để đời" của người Sĩ

Những phát minh "để đời" của người Sĩ

Ông Walter Düring Orlob và bà mẹ Maria Döring-Keller. Ảnh: GOL.COM

Với bản tính chú trọng thực tế, tất cả những phát minh của người Sĩ đều là những thứ rất quan trọng đối với cuộc sống con người. Chúng ta thử điểm qua một số phát minh đáng chú ý nhất của họ.

Khóa dán Velcro (1941)

Ngày nay, mọi khía cạnh của cuộc sống đều được bao phủ bởi dán Velcro, từ những chiếc quai giày, ba lô, túi xách, túi đựng laptop đến máy đo huyết áp và các vật dụng trên máy bay. 

Các phi hành gia của NASA đã xài Velcro để giữ các thiết bị cần thiết trên bộ đồ phi hành và trong phi thuyền từ những năm 1960. Một bộ dán Velcro kích thước 5 cm x 5 cm có thể chịu được lực lên đến 80kg.

Trước khi Velcro được tạo ra, tất cả những gì được thực hiện là dùng dây buộc, quai móc, nút gài để cố định, cột các đồ vật, thao tác cực kỳ nhanh và tốn thời gian. 

George de Mestral, một kỹ sư Sĩ, thường xuyên vào rừng săn cùng con chó của mình vào năm 1941. Sau những lần đi săn về, ông để ý thấy có rất nhiều hạt cây ngưu bàng bám vào quần áo của mình và trên lông con chó. 

Sự phát minh của dán Velcro có nguồn gốc từ hạt ngưu bàng. Ảnh: UNREALSIDE.COM

Mestral sử dụng kính hiển vi để xem một hạt cây và phát hiện ra rằng bề mặt của nó được bao phủ bởi một số móc nhỏ li ti. Những cái móc này làm cho hạt bám chặt vào vải và lông động vật.

Ý tưởng tạo ra một loại "khóa" tiện dụng thay cho các loại dây, móc đang có đã được nảy sinh bởi Mestral. Tuy nhiên, Mestral phải mất đến 8 năm nghiên cứu để tạo ra thứ dán mà ông gọi là Velcro. Từ này bắt nguồn từ chữ "velvet" (nhung) và "crochet" (móc) trong tiếng Pháp.

Dây kéo (1923)

Dây kéo zipper. Ảnh: WIKIPEDIA

Mặc dù người Mỹ thực sự đã phát triển một mẫu "tiền-dây kéo" và nộp đơn đăng ký sáng chế vào năm 1851, mẫu này vẫn còn nhiều thiếu sót, không tiện dụng và gọn gàng.

Đến năm 1923, một doanh nhân người Mỹ đã tìm đến gặp ông Martin Winterhalter, một luật sư ở thành phố St. Gallen (Thụy Sĩ) để chào bán bằng sáng chế. Vì Winterhalter rất nhạy bén, anh ta nhận ra tiềm năng thành công của sản phẩm mới nên đã bỏ ra 10.000 franc để sở hữu bằng sáng chế. 

Ông đã tìm ra cách kết hợp các răng dây kéo vào nhau một cách trơn tru mà chỉ cần lực kéo nhẹ. Dây kéo tiện dụng mà chúng ta xài hàng ngày hiện nay là sản phẩm hoàn thiện của Winterhalter.

Có tới 14 tỉ dây kéo các loại được tiêu thụ hàng năm trên toàn thế giới, một nửa trong số đó được sản xuất ở Nhật Bản bởi YKK, hãng dây kéo nổi tiếng.

Giấy bóng kính cellophane (1912)

Trong cuộc sống hiện nay, giấy bóng kinh cellophane đã trở thành thứ không thiếu. Ảnh: UNREALSIDE.COM

Ngày nay, giấy bóng kính trong suốt dùng để gói quà là thứ không thể thiếu mỗi dịp Giáng sinh và Ngày lễ. Ngoài ra, đây là một sản phẩm quan trọng được sử dụng để bảo quản thực phẩm. 

Khi rót rượu vang, nhà hóa học người Sĩ Jacques E. Brandenberger đã vô tình đổ rượu xuống tấm vải trải bàn. Ông đã nảy ra ý tưởng tạo ra một vật liệu có thể hấp thụ dung dịch thay vì thẩm thấu nó và có thể chống lại sự thẩm thấu của nó.

Ban đầu, Brandenberger sử dụng một hóa chất gốc cellulose để phủ lên bề mặt vải, nhưng không thành công vì nó bị tách lớp và vải bị cứng lại. Tuy nhiên, ông phát hiện ra một lớp màng trong suốt bị bong tróc khỏi bề mặt vải. Màng này có tính năng chống thấm rất tốt và tạo sự thẩm mỹ khi được sử dụng để phủ lên đồ vật. 

Từ phát hiện này, Brandenberger chế tạo thành công loại màng mỏng trong suốt được sử dụng để gói hàng hóa được gọi là cellophane, được tạo thành từ hai từ cellulose và diaphane (trong suốt). Nó là một chế phẩm nhựa sinh học được làm từ cellulose của gỗ. 

Màn hình tinh thể lỏng LCD (1970)

Màn hình tinh thể lỏng là sản phẩm của một hãng dược phẩm Sĩ. Ảnh: HARDTOFIND

Để ca ngợi chất lượng của các loại đồng hồ do Sĩ sản xuất, người ta có câu "chính xác như đồng hồ Sĩ." Sĩ sản xuất đồng hồ dùng mạch điện tử có màn hình tinh thể lỏng LCD (Liquid Crystal Display) ngoài đồng hồ cơ. 

Đây là phát minh năm 1970 của hãng Hoffman-La Roche, và để sản xuất màn hình cho các loại đồng hồ và thiết bị khác được bán trên toàn thế giới, công nghệ sau đó được chuyển giao cho hãng Brown, Boveri và Cie. 

Thật thú vị khi lưu ý rằng Hoffman-La Roche, một tên tuổi lẫy lừng trong làng y dược thế giới, ngày nay không liên quan gì đến công nghiệp đồng hồ mà chuyên ngành của họ là sản xuất dược phẩm.

Kiểu dáng cổ ngỗng của chai dung dịch tẩy rửa nhà vệ sinh (1980)

Trong các loại chai tẩy rửa toilet, kiểu dáng cổ ngỗng rất được ưa chuộng. Ảnh: NEWLYSWISSED

Các chai nhựa đựng dung dịch tẩy rửa nhà vệ sinh luôn có phần trên hình ngỗng (các nước dùng tiếng Anh được gọi là Toilet Duck), kiểu dáng ngộ nghĩnh này giúp người ta có thể xịt chất tẩy rửa vào mọi ngóc ngách của thiết bị vệ sinh. 

Walter Düring Orlob đã phát minh ra điều này. Ngoài ra, bà mẹ Maria Düring-Keller của ông đã tạo ra Durgol, một loại dung dịch dùng để tẩy chất calci bị vôi hóa hiện được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới.

Phông chữ Helvetica (1957)

Phông chữ Helvetica. Ảnh: NEWLYSWISSED

Phổng chữ Helvetica hiện được sử dụng rất nhiều ở các quốc gia sử dụng hệ thống ký tự Latinh, đặc biệt là trong báo chí, sách in, các trang web và không thể thiếu trong bộ phông chữ của máy vi tính. 

Đây là phát minh của hai nhà thiết kế mỹ thuật người Sĩ Max Miedinger và Eduard Hoffmann vào năm 1957.

Cà phê tan uống liền (1936)

Cà phê tan uống liền (instant coffee) không tồn tại cho đến trước năm 1936. Các khâu đun nước, cho cà phê bột vào phin, chờ cà phê rỏ xuống đầy tách, cho đường vào... đều cần rất nhiều thời gian để thưởng thức cà phê vào thời điểm đó. 

Brazil, quốc gia trồng cà phê nhiều nhất trên thế giới vào thời điểm đó, đã sản xuất một lượng rất lớn cà phê hạt vào năm 1929, nhưng không bán được sang thị trường tiêu thụ chủ yếu của Mỹ vì nước này đang trải qua cuộc Đại khủng hoảng kinh tế. 

Viện nghiên cứu cà phê Brazil đã liên hệ với hãng chế biến thực phẩm Nestlé của Sĩ vì hạt cà phê không thể bảo quản được lâu, và họ đang tìm cách sản xuất một loại cà phê có thể tan và bảo quản lâu dài để cứu ngành cà phê đang suy thoái.

Các kỹ sư của Nestlé đã thất bại mặc dù phải mất đến 5 năm nghiên cứu, vì loại cà phê tan trong nước của họ không giữ được hương vị đặc trưng của cà phê truyền thống. Nestlé đành bỏ cuộc, nhưng Max Morgenthaler, một chuyên viên hóa học của họ, vẫn âm thầm theo đuổi việc nghiên cứu bằng tiền túi. 

Đến ngày 1/4/1938, loại cà phê tan đầu tiên của thế giới mang thương hiệu Nestlé đã được tung ra thị trường và thành công rực rỡ. Đó là nhờ thành công của Morgenthaler trong việc chuyển giao bí quyết chế biến cho Nestlé vào năm 1936.

Theo Tạp chí Điện tử

Cập nhật tin tức công nghệ mới nhất tại fanpage Công nghệ & Cuộc sống

Nguồn tin:

 

Tham gia bình luận